banerchinh-ngay14-3-2021
Nhiệt liệt chào mừng 80 năm cách mạng tháng tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025)|và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2025)!
Hỗ trợ trực tuyến
Hội thảo khoa học

QUY ĐỊNH VỀ CƠ SỞ DỮ LIỆU HỘ TỊCH TRONG LUẬT HỘ TỊCH 2014

Ngày 20/11/2014, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Hộ tịch với nhiều điểm mới tích cực, trong đó luật đã quy định về Sổ hộ tịch và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử nhằm tập hợp và quản lý thống nhất mọi dữ liệu hộ tịch của công dân Việt Nam ở trong nước và nước ngoài...

 

Hồ Thị Lý - Giảng viên khoa Nhà nước - Pháp luật

 

Ngày 20/11/2014, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Hộ tịch với nhiều điểm mới tích cực, trong đó luật đã quy định về Sổ hộ tịch và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử nhằm tập hợp và quản lý thống nhất mọi dữ liệu hộ tịch của công dân Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Sổ hộ tịch là nguồn của Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử quốc gia, phục vụ công tác quản lý dân cư, quản lý nhà nước và xã hội theo hướng hiện đại, bảo đảm thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có yêu cầu khai thác sử dụng. Hai khái niệm sổ hộ tịch và cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử đều thống nhất trong khái niệm chung là cơ sở dữ liệu hộ tịch.

Ở nước ta, việc đăng ký và quản lý hộ tịch có lịch sử lâu đời từ thời phong kiến nhà Trần và các triều đại phong kiến tiếp theo. Tuy nhiên, việc quản lý hộ tịch chỉ được thực hiện một cách đầy đủ, khoa học từ thời kỳ Pháp thuộc. Trong thời Pháp thuộc, sổ hộ tịch được ghi chép rất cẩn thận với ba thứ tiếng gồm tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Trung (gọi là “sổ bộ”), ngoài chữ ký của người đi đăng ký khai sinh, người có thẩm quyền chứng nhận thì còn có cả chữ ký của người làm chứng. Hiện nay, một số sổ sách hộ tịch thời Pháp thuộc vẫn còn được lưu giữ tại các thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ.

            Suốt thời bao cấp cho đến cuối thể kỷ 20, việc ghi chép sổ hộ tịch đã dần được hoàn thiện, việc phân cấp quản lý hộ tịch tại từng địa phương đã diễn ra từng bước, tuy nhiên qua đánh giá việc lưu trữ trong suốt thời kỳ này còn thô sơ, không mang tính bảo quản lâu dài, trong đó có nguyên nhân khách quan là do chiến tranh, thất lạc và nguyên nhân chủ quan thì với nền kinh tế còn hết sức khó khăn, nhân lực, vật lực còn thiếu việc ghi chép đầy đủ đã cố gắng rồi.

Đến đầu năm 2006 khi Nghị định 158/2005/NĐ-CP có hiệu lực cho đến nay, công tác đăng ký, quản lý hộ tịch ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực, việc ghi sổ kép và lưu sổ cũng được triển khai và thực hiện nghiêm túc hơn, nội dung trong sổ được viết rõ ràng, sạch sẽ, ít sai sót hơn; việc sửa chữa sai sót cũng đã được thực hiện theo đúng hướng dẫn. Nhiều địa phương đã đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho việc lưu sổ hộ tịch (bố trí kệ sắt, tủ, phòng lưu trữ…). Tuy nhiên, quá trình thực hiện Nghị định còn bộc lộ một số hạn chế như tình trạng thông tin hộ tịch của cá nhân trong các giấy tờ không thống nhất; thực tế cho thấy có trường hợp một người có tới 2 thậm chí 3 giấy khai sinh; rồi việc tùy tiện cải chính năm sinh, việc khai tử không đúng quy định của pháp luật để trục lợi (ví dụ như: để đủ tiêu chuẩn quy hoạch, bổ nhiệm; không khai tử cho người đã chết để tiếp tục hưởng tiền trợ cấp, bảo hiểm xã hội, ngược lại có trường hợp khai tử cho người còn sống để hưởng chế độ tử tuất, để chia nhau ”di sản”...); hay để trốn tránh pháp luật (ví dụ như để tảo hôn...). Nguyên nhân của tình trạng trạng trên là do dữ liệu hộ tịch của cá nhân bị phân tán, không xâu chuỗi, kết nối được với nhau. Từ trước đến nay pháp luật về hộ tịch đều quy định mỗi việc hộ tịch (sinh, kết hôn, tử, nuôi con nuôi, giám hộ…) được đăng ký vào một sổ riêng (Sổ đăng ký khai sinh, Sổ đăng ký kết hôn, Sổ đăng ký tử, Sổ đăng ký việc nuôi con nuôi v.v…), qua đó dữ liệu khai sinh chỉ được phản ánh trong Sổ đăng ký khai sinh, dữ liệu kết hôn chỉ được phản ánh trong Sổ đăng ký kết hôn… Mặt khác, trong thời kỳ công nghiệp hóa và hội nhập hiện nay, người dân di cư tới nhiều địa bàn khác nhau (kể cả ở nước ngoài), thì các sự kiện hộ tịch của cá nhân cũng được đăng ký ở nhiều địa phương khác nhau, nhiều cấp khác nhau, kể cả ở Cơ quan đại diện; trong khi đó lại không có 01 sổ hộ tịch chung để tích hợp mọi thông tin về hộ tịch của mỗi cá nhân, chính vì vậy, các dữ liệu hộ tịch của cá nhân bị phân tán, không xâu chuỗi, kết nối được với nhau nên Nhà nước không kiểm soát được thông tin về hộ tịch của từng cá nhân, khả năng tra cứu, khai thác phục vụ cho yêu cầu của người dân và của các cơ quan, tổ chức rất hạn chế. Cùng với thông tin ghi trong sổ hộ tịch, các giấy tờ hộ tịch được cấp cho cá nhân công dân cũng chỉ có nội dung ghi về một sự kiện hộ tịch đã được đăng ký nên khi cần chứng minh tình trạng hộ tịch, thì người dân phải nộp cùng một lúc tất cả các loại giấy tờ hộ tịch đã được cấp.

Bên cạnh đó, việc quản lý các thông tin biến động hộ tịch còn bất cập, chưa có được sự liên thông giữa các ngành ở Trung ương và địa phương. Cùng với hệ thống sổ hộ tịch chưa được cải tiến hợp lý như đã nói ở trên và việc lưu sổ hộ tịch và hồ sơ đăng ký hộ tịch cũng chưa khoa học đã dẫn đến hệ thống dữ liệu hộ tịch (thực chất là những kho dữ liệu độc lập) bị phân tán, không tập trung, không kết nối được với nhau nên không tích hợp được thông tin về hộ tịch của từng cá nhân; khả năng tra cứu, khai thác phục vụ cho yêu cầu của người dân và của các cơ quan, tổ chức là rất hạn chế. Điều này một mặt làm giảm hiệu quả công tác quản lý dân cư, quản lý xã hội, chưa đóng góp được nhiều cho công tác dự báo để hoạch định, xây dựng và thực thi chính sách về kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng của đất nước. Mặt khác, vừa thiếu cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm cho người dân thực hiện các quyền công dân của mình, vừa tạo kẽ hở cho một số cá nhân lợi dụng trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật.

Luật Hộ tịch ra đời với việc xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch quốc gia đã khắc phục được những hạn chế trên. Điều này được thể hiện ở một số điểm sau:

- Luật quy định việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào công tác đăng ký, quản lý hộ tịch. Chẳng hạn tới đây khi đăng ký khai sinh thì ngoài việc được cấp Giấy khai sinh, người được đăng ký khai sinh đồng thời được cấp Số định danh cá nhân. Số định danh cá nhân là số được cấp cho mỗi cá nhân, không lặp lại ở người khác; số này cũng chính là số Thẻ căn cước công dân được cấp khi đủ 14 tuổi. Như vậy, với việc cấp số định danh cá nhân khi đăng ký khai sinh, tỷ lệ đăng ký khai sinh chắc hẳn sẽ cao, tình trạng một người có 2 hay 3 giấy khai sinh, tùy tiện cải chính ngày tháng năm sinh sẽ không còn cơ hội để tồn tại nữa.

- Với việc Luật cho phép xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử để lưu giữ thông tin hộ tịch của cá nhân (song song với cơ sở dữ liệu giấy), đồng thời kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, các Bộ, ngành, địa phương có thể lấy thông tin cá nhân từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, thì một mặt sẽ khắc phục được tình trạng không thống nhất về thông tin cá nhân trên hồ sơ, giấy tờ cũng như trong các cơ sở dữ liệu có liên quan và mặt khác là sự cải cách đáng kể thủ tục hành chính, đơn giản hóa giấy tờ công dân và cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư.

            Tuy nhiên, dự liệu việc thi hành luật này vẫn còn một số vấn đề khó khăn, nếu khắc phục được thì thiết nghĩ luật đã đi vào cuộc sống và hoàn toàn tạo được sự tin tưởng của nhân dân:

            - Thứ nhất, về trình độ của một số công chức Tư pháp - hộ tịch cấp xã còn hạn chế. Tuy đầu vào là yêu cầu phải có bằng trung cấp luật trở lên, có chứng chỉ tin học và ngoại ngữ nhưng thực tế tại một số địa phương thì việc tuyển công chức cấp xã còn nhiều bất cập, thậm chí tuyển người học quản lý hành chính vào làm tư pháp, hoàn toàn không liên quan đến ngành luật. Công chức tư pháp cấp xã còn kiêm nhiệm thêm chức phó trưởng Công an, công tác tư pháp bị san sẻ sang hẳn lĩnh vực khác thì việc chuyên tâm ắt sẽ bị ảnh hưởng. Cho nên việc đầu tiên, công chức Tư pháp - hộ tịch phải thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ  hộ tịch, giảm tải trong công việc, phân công công tác cho hợp lý nhất.

            - Thứ hai, việc cập nhật dữ liệu hộ tịch điện tử đòi hỏi hệ thống máy móc, phương tiện làm việc phải hoàn chính, đồng bộ. Hiện nay, công chức tư pháp cấp xã ít người có máy riêng, hầu hết phải dùng chung máy với bộ phận khác như dùng chung máy với văn phòng, lao động - thương binh xã hội, kế toán...cho nên việc bảo mật dữ liệu không đảm bảo. Mặt khác, hệ thống máy móc lại không được quan tâm đúng mức, phần nhiều đã dùng những máy đã hết khấu hao, khi xảy ra sự cố rất dễ dẫn đến tình trạng mất dữ liệu cục bộ. Cho nên, nâng cấp hệ thống máy tính là ưu tiên cho việc thực hiện nhập dữ liệu hộ tịch điện tử nêu trên.

            Luật Hộ tịch ra đời với quy định về cơ sở dữ liệu hộ tịch có thể coi là một bước đột phá về thể chế của công tác hộ tịch, nền tảng phục vụ nhân dân. Là cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, là cơ sở để xây dựng hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, thân thiện với người dân, phục vụ tốt hơn các yêu cầu của người dân và cơ quan, tổ chức./.

            

(Nguồn: Khoa Nhà nước - Pháp luật)

Thông tin khác

CẤP LẠI GIẤY KHAI SINH - VẤN ĐỀ CHƯA ĐƯỢC QUY ĐỊNH TRONG LUẬT HỘ TỊCH
TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG CHỨC TƯ PHÁP - HỘ TỊCH TRONG TRIỂN KHAI LUẬT HỘ TỊCH 2014
NHỮNG NHIỆM VỤ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC TƯ PHÁP - HỘ TỊCH CẤP XÃ THEO QUY ĐỊNH TRONG LUẬT HỘ TỊCH NĂM 2014
BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC NHÂN KỶ NIỆM 70 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ QUỐC KHÁNH 2/9
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - MỐC SON LỊCH SỬ MỞ RA KỶ NGUYÊN ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CẦM QUYỀN 70 NĂM QUA - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
MỐI QUAN HỆ ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN Ở VIỆT NAM
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
ĐẤU TRANH PHÊ PHÁN CÁC QUAN ĐIỂM XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI HIỆN NAY
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
XÂY DỰNG BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG, NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XHCN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
NỘI DUNG TÓM TẮT VÀ MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN (Luật số 85/2015/QH13)
Lịch giảng dạy
Hoạt động tiêu biểu
tapthenhatruong
BithuTinhuy
hoithaocapbo2022
hoithaokllcs
giaoluubongda
camhoa
Trường Chính trị Trường Chinh
Địa chỉ: Số 39 Đường Vị Xuyên - TP.Nam Định
Điện thoại: 0228.3649222 - Fax: 0228.3642530 - Hotline 24/7: 
Website: www.truongchinhtritruongchinhnd.gov.vn - Email: chinhtrinamdinh@gmail.com