Hồ Thị Lý -
Giảng viên khoa Nhà nước - Pháp luật
Việc Luật Hộ tịch được Quốc hội khóa XIII thông qua
tại kỳ họp thứ 8 đã tạo bước đột phá về thể chế của công tác hộ tịch, nền tảng
phục vụ Nhân dân. Là cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ cho công tác đăng ký và
quản lý hộ tịch, là cơ sở quan trọng để xây dựng hệ thống đăng ký và quản lý hộ
tịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, thân thiện với người dân, phục vụ tốt
hơn các yêu cầu của người dân và các cơ quan, tổ chức.
Trong Luật hộ tịch hay trước đó là Nghị định 158/2005/NĐ-CP
của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch thì mục đầu tiên nội dung công việc
đó là đăng ký khai sinh. Thật vậy, đối với mỗi một quốc gia thì việc sinh là
điều hết sức quý báu, đó là nguồn lực mà tạo hóa đã ban cho con người - duy trì
giống nòi, cho nên việc đăng ký khai sinh vẫn luôn là công việc đầu tiên của
mỗi văn bản quy định về hộ tịch. Hơn nữa, giấy khai sinh được coi là giấy tờ hộ
tịch gốc của mỗi cá nhân, mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về họ,
tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, quê quán,
quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với giấy khai sinh của người đó. Trong Luật
Hộ tịch mới, việc quy định về đăng ký khai sinh đã tiến thêm một bước về đơn
giản hóa thủ tục hành chính so với Nghị định 158. Tuy nhiên, trong Luật Hộ tịch
lại không quy định về vấn đề cấp lại giấy khai sinh.
Nghị định 158/2005 ngoài quy định về việc đăng ký khai
sinh còn quy định thêm cả việc đăng ký lại khai sinh và cấp lại khai sinh, cụ
thể như sau:
Điều 46: “Việc
sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi đã được đăng ký, nhưng sổ hộ tịch và bản
chính giấy tờ hộ tịch đã bị mất hoặc hư hỏng không sử dụng được, thì được đăng
ký lại” quy định này áp dụng với cả UBND cấp xã, phường và cơ quan Sở Tư pháp
có liên quan đến yếu tố nước ngoài.
Điều 62 quy định về trường hợp cấp lại giấy khai sinh:
“Trong trường hợp bản chính Giấy khai sinh bị mất, hư hỏng hoặc phải ghi chú
quá nhiều nội dung do được thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc,
xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch hoặc điều chỉnh hộ tịch mà Sổ đăng ký
khai sinh còn lưu trữ được, thì được cấp lại bản chính Giấy khai sinh. Ủy ban
nhân dân cấp huyện, nơi lưu trữ Sổ đăng ký khai sinh thực hiện việc cấp lại bản
chính Giấy khai sinh. Sở Tư pháp tỉnh (thành phố), nơi trước đây đương sự đã
đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài thực hiện việc cấp lại bản chính Giấy
khai sinh”
Như vậy hai vấn
đề này tuy tính chất và thẩm quyền khác nhau nhưng tựu chung lại đều quy định
việc cấp bản gốc giấy khai sinh cho một người đã thất lạc giấy khai sinh và khi
giấy khai sinh bị hư hỏng. Trong khi đó, Luật hộ tịch lại không hề quy định
điều này, hoàn toàn bỏ trống việc cấp lại giấy khai sinh, chỉ quy định việc cấp
một bản chính khi người dân đi đăng ký và cấp bản sao trích lục theo quy định.
Theo tôi, việc Luật Hộ tịch không có quy định cấp lại
bản chính giấy khai sinh sẽ gây ra một số khó khăn cho người dân. Cụ thể:
Thứ nhất, giấy khai sinh là tờ giấy đầu tiên của con
người, là tấm giấy thông hành đầu tiên để mỗi đứa trẻ bước vào đời, không nên
tước đi cái quyền được cấp lại bản gốc khai sinh đó. Hơn nữa, việc thi hành
pháp luật của một bộ phận cán bộ công chức của đất nước ta còn nhiều bất cập,
làm bất cứ vấn đề gì đều yêu cầu xuất trình bản chính mặc dù đã có bản sao
chứng thực, điều này vô hình chung đã gây không ít khó khăn cho người dân khi
thực hiện quyền của mình.
Thứ hai, trong Luật hộ tịch chưa quy định hết những
yếu tố tồn tại của lịch sử để lại. Tại rất nhiều nơi trên cả nước, việc lưu trữ
hồ sơ chưa được tin học hóa, việc lưu trữ hoàn toàn thủ công, thậm chí, nếu
muốn tin học hóa toàn bộ hồ sơ sổ sách thì gần như là không thể vì khối lượng
giấy tờ quá lớn (có nơi lưu hồ sơ hộ tịch từ 1954 trở lại đây), nguồn vốn lại
không có, không có công chức chuyên trách cho việc nhập hồ sơ. Như vậy điều
Điều 63 “Cá nhân không phụ thuộc vào
nơi cư trú có quyền yêu cầu Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch cấp bản sao
trích lục hộ tịch về sự kiện hộ tịch của mình đã được đăng ký” sẽ chưa thể thực
hiện ngay được, mặc dù điều 75 quy định “Sổ hộ tịch được lưu trữ trước ngày
Luật này có hiệu lực vẫn có giá trị làm căn cứ chứng minh sự kiện hộ tịch của
cá nhân, tra cứu, cấp bản sao trích lục hộ tịch, cấp giấy xác nhận tình trạng
hôn nhân” thì công dân không thể đến cơ quan quản lý dữ liệu hộ tịch yêu cầu
cấp bản sao khác nơi cư trú của công dân được, hiện tại điều này nằm ngoài khả
năng của cơ quan cấp bản sao. Không chỉ giấy khai sinh không thể trích lục được
mà các giấy tờ hộ tịch khác cũng không thể trích lục được.
Việc đơn giản hoá thủ tục hành chính và ứng dụng khoa
học công nghệ trong quản lý hành chính nhà nước là một điều rất cần thiết. Luật
Hộ tịch ra đời đã đáp ứng được nhu cầu này. Tuy nhiên, để Luật Hộ tịch thực sự
đi vào cuộc sống thì cần phải có thời gian để chuyển đổi từ cái cũ sang cái
mới. Luật Hộ tịch hiện nay vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành, hi vọng
rằng trong thời gian tới, sẽ có những văn bản cụ thể hoá về những vấn đề này./.
|