Tóm tắt: Xây dựng phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội. Tổng kết vấn đề này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xác định rõ: “Chúng ta cần sự phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội”[1] và cho rằng, phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là một trong những “giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”[2]
Từ khóa: tăng trưởng kinh tế; tiến bộ và công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và bảo đảm công bằng xã hội là quan điểm phát triển phổ biến hiện nay, vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ, đồng thời cũng vừa là thước đo đánh giá sự phát triển của các quốc gia. Ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực chất của tăng trưởng gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là việc giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội nhằm đem lại cuộc sống ấm no, bình đẳng, hạnh phúc cho Nhân dân; và cũng là mục tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN. Đúng như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc uống, già không lao động thì được nghỉ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”[3].
Nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của tiến bộ xã hội, trong quá trình lãnh đạo cách mạng cũng như trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta xác định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”[4]. Các đại hội Đảng gần đây đều xác định con người vừa là trung tâm chiến lược, vừa là mục tiêu, động lực của phát triển; thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển. Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân”[5]. Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng phát triển tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”[6]. Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
Điều đó có nghĩ là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sự phát triển lành mạnh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng trưởng kinh tế là cơ sở, là điều kiện để nâng cao phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quan trọng, liên quan đến sự thịnh suy của một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế là gốc, là nền tảng để giải quyết mọi vấn đề. Có thể khẳng định, vai trò nền tảng của tăng trưởng kinh tế đối với tiến bộ và công bằng xã hội đó là:
Có tăng trưởng kinh tế, nhất là tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, dài hạn thì mới gia tăng quỹ tái sản xuất mở rộng, tạo thêm nhiều việc làm mới, gia tăng thu nhập;
Nếu tăng trưởng kinh tế, thấp hoặc không có tăng trưởng kinh tế thì không có cơ sở vật chất, không có điều kiện tài chính để thực hiện những vấn đề nêu trên, tức là không thực hiện được tiến bộ và công bằng xã hội;
Phát triển kinh tế với các nội dung của nó nếu không được thực hiện thì cũng chính là tiến bộ và công bằng xã hội không được thực thi.
Tiến bộ và công bằng xã hội được thực hiện sẽ tạo động lực và môi trường thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khuyến khích người lao động vươn lên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề để có năng suất lao động cao, có thu nhập cao, khi đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây chính là yếu tố quan trọng đóng góp vào tăng trưởng, phát triển kinh kế.
Hơn 35 năm đổi mới, cùng với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, việc thực hiện tiến bộ xã hội ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu:
Lực lượng sản xuất phát triển với hàm lượng khoa học ngày càng cao và với quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế tăng trưởng nhanh, chất lượng được cải thiện; quyền làm chủ của nhân dân đối với mọi mặt đời sống xã hội được bảo đảm; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng hoàn thiện theo hướng trong sạch, vững mạnh. Dân chủ được phát huy, kỷ luật, kỷ cương được bảo đảm; văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ được mở mang, trình độ dân trí phát triển; những thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội được đấu tranh loại bỏ dần; môi trường sinh thái được quan tâm bảo vệ hơn; con người có điều kiện hơn để phát triển về thể chất, trí tuệ, đạo đức, nghề nghiệp, có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc; được cống hiến và hưởng thụ công bằng thành quả của sự phát triển. Đích hướng tới của tiến bộ xã hội nhằm phát triển toàn diện con người đã đạt được những bước tiến dài. Tổng kết nhiệm kỳ Đại hội XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, Đảng ta đánh giá: “Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam,… có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật”[7].
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện tiến bộ xã hội vẫn còn những hạn chế: “Tỷ lệ người lao động làm các công việc không ổn định còn nhiều. Một bộ phận sinh viên sau tốt nghiệp khó tìm được việc làm. Kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Còn tình trạng lợi dụng chính sách giảm nghèo để trục lợi. Các thiết chế, cơ chế hỗ trợ thị trường lao động, quan hệ lao động hiệu quả còn thấp”[8]. Chưa quan tâm đúng mức đến các đối tượng yếu thế trong xã hội…
Để khắc phục những hạn chế, bất cập nhằm thực hiện tiến bộ xã hội trong từng bước đi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, ngày càng thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Nhà nước có những chính sách quan tâm đến người nghèo với phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau” và nhất là quan tâm đến những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, đồng bào dân tộc để họ có điều kiện được tiếp cận với kinh tế và cải thiện đời sống, nâng cao mức sống so với sự phát triển của xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Phấn đấu sớm hoàn thành các mục tiêu theo Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Phát triển vì con người, tạo điều kiện cho mọi người, nhất là trẻ em, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, người di cư hòa nhập, tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, cùng phát triển. Quan tâm phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn; tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030”[9].
Hai là, tăng cường công tác xây dựng Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí
Coi trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên trong ngành. Thực hiện nghiêm các Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đồng bộ với thực hiện các quy định nêu gương. Xây dựng bộ máy, tổ chức, biên chế tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả theo các Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW; xây dựng đội ngũ cán bộ đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ theo Nghị quyết số 26-NQ/TW. Đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong toàn ngành; tiến hành tổng kết, truyền cảm hứng và hướng dẫn công tác phòng chống tiêu cực, tham nhũng tại các cơ sở, đơn vị sự nghiệp trong ngành.
Ba là, xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành pháp luật.
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, tạo hành lang pháp lý để kiến tạo mô hình hệ thống an sinh xã hội (phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro) nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân theo hiến định trong một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Tiếp đó là hoàn thiện chế độ phân phối thu nhập, quy phạm trật tự phân phối thu nhập; tích cực hoàn thiện chế độ tài chính công, thiết lập hệ thống phúc lợi hợp lý, chú ý thích đáng đến công tác xóa đói, giảm nghèo đa chiều bền vững, đầu tư hiệu quả cho y tế, giáo dục, văn hoá, bảo đảm công ăn việc làm cho nhân dân, xây dựng môi trường sinh thái lành mạnh, an toàn. Từng bước hình thành hệ thống an sinh xã hội, lấy công bằng quyền lợi, công bằng cơ hội, công bằng phân phối là nội dung chủ yếu, làm cho toàn thể nhân dân được hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Đây chính là ưu việt về sự thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Thứ tư, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Thực hiện mô hình tăng trưởng mới chủ yếu dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số. Thực hiện các cơ hội bình đẳng để giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động thì Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, cơ chế và giải pháp tích cực để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng tỷ trọng lao động khu vực chính thức; nâng cao chất lượng nguồn lao động của đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được bảo đảm; thế và lực quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố; “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[10]./.
1,2 Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 16-5-2021
[3]. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 438
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 77-78
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 299
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 119
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.21
[8]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr.71-72
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, tập I, tr.104
[10].Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, tập I, tr.104
|