MỤC LỤC
1.
Xứng đáng với truyền thống cách mạng của quê hương Nam Định
2.
Cách mạng Tháng Mười và lãnh tụ Hồ Chí Minh
3.
Cách mạng Tháng Mười Nga - Mở đầu thời đại mới trong lịch sử phát triển của
nhân loại
4.
Bài học của
cách mạng Tháng Mười Nga và con đường cách mạng Việt Nam
5. Đồng chí Nguyễn Văn Hoan - Người Bí thư Tỉnh bộ
Việt Nam cách mạng Thanh niên đầu tiên tỉnh Nam Định
6. Tác phẩm “Đường Kách mệnh” trong quá trình
thành lập Đảng bộ tỉnh Nam Định
7. Đạo đức người cách mạng trong tác phẩm “Đường Kách
mệnh”
8. Sự sụp đổ của chính quyền Xô Viết và bài học về
vấn đề bảo vệ thành quả cách mạng vô sản
9. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra
10. Tư duy chính trị của Lênin về quan hệ giữa
kinh tế và chính trị sự vận dụng của Đảng ta trong 30 năm đổi mới
11. Triển khai hiệu quả phần học “Những vấn đề cơ
bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” chương trình Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính chỉnh sửa, bổ sung
12. Nâng cao chất lượng soạn và giảng dạy bài
nghiệp vụ công tác Hội cựu chiến binh và vận động cựu chiến binh ở cơ sở
13. Chi bộ phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị
phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh
14. Đổi mới hoạt động nghiên cứu thực tế của giảng
viên trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định hiện nay
15. Cán bộ, viên chức, nhân viên hành chính trường
Chính trị Trường Chinh trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
16. Giới thiệu sách - Dân chủ trực tiếp ở Việt Nam
- Lý luận và thực tiễn
NỘI DUNG BÀI VIẾT:
XỨNG ĐÁNG VỚI TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG
CỦA QUÊ HƯƠNG NAM
ĐỊNH
THS, GVC. PHẠM THỊ THANH THUỶ
Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy,
Giám đốc nhà trường
Năm 2017 là năm có ý nghĩa lịch
sử quan trọng đối với sự phát triển của trường Chính trị Trường Chinh. Đây là năm thứ
2 Đảng bộ nhà trường thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII, Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XIX, các Nghị quyết chuyên đề
của Đảng bộ nhà trường nhiệm kỳ 2015-2020; là năm Kỷ niệm 100 năm Cách mạng
Tháng Mười Nga (7/11/1997-7/11/2017), 110 năm ngày sinh Tổng Bí thư Trường
Chinh (9/2/1907-9/2/2017), 35 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982-
20/11/2017) và những ngày lễ lớn của đất nước. Đặc biệt, ngày 8/2/2017 nhà
trường đã vinh dự được đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thăm và làm việc. Tổng
Bí thư đã biểu dương những thành tích của nhà trường từ ngày thành lập đến nay.
Nhà trường đã làm tròn nhiệm vụ huấn luyện cho cán bộ cơ sở về đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức lý luận về chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, về công tác xây dựng Đảng; tích cực đào tạo, bồi dưỡng
cho đội ngũ cán bộ, công chức cho tỉnh. Đồng thời Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc học lý luận và giao nhiệm vụ cho nhà trường trong việc
dạy học lý luận chính trị.
Với tổng số 55 cán bộ giảng viên
nhân viên hiện có (Trong đó: Tiến sĩ: 03 đồng chí; Thạc sỹ: 21 đồng chí; Đại
học: 25 đồng chí; 04 đồng chí đang
học Cao học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
Cao cấp lý luận chính trị: 23 đồng chí, giảng viên: 41 đồng chí; giảng viên
chính: 12 đồng chí) và các tổ chức trong hệ thống chính trị nhà trường hoạt
động tương đối đồng bộ và hiệu quả (Đảng bộ có 50 đảng viên: tham gia Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh 01 đồng chí; Ban Chấp hành Đảng bộ nhà trường 08 đồng chí; Ban
Thường vụ Đảng uỷ nhà trường 03 đồng chí; Công đoàn trường có 55 đoàn viên; Hội
cựu chiến binh có 06 hội viên; Đoàn thanh niên có 18 đoàn viên) trong những năm qua, hoạt động của nhà trường tiếp tục ổn định và phát
triển về mọi mặt trên cơ sở những định hướng lớn của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Nam
Định.
Tính
riêng năm
học 2016-2017, nhà trường đã giảng dạy và phục vụ giảng dạy cho 79 lớp. Trong đó 33 lớp Trung cấp lý luận chính trị - hành chính với 2.771 học
viên; 03 lớp Trung cấp Pháp luật với 218 học
viên; liên kết đào tạo: 04 lớp Cao cấp lý luận chính trị với 375 học viên; bồi dưỡng kiến thức quản lý
nhà nước 12 lớp với 1.130 học viên
(01 lớp Bồi
dưỡng ngạch chuyên viên chính với 72 học viên, 11
lớp Bồi dưỡng ngạch chuyên viên với 1.058 học viên); 04 lớp Bồi dưỡng Đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện và 43 lớp Bồi dưỡng Đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã; 06 lớp Đối tượng Đảng và Đảng viên mới. Trong quá trình đào tạo,
nhà trường luôn chấp hành nghiêm chỉnh nội dung, chương trình, quy chế đào tạo
do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định,
chất lượng đào tạo ngày một nâng lên, được Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, các đơn vị, địa phương trong tỉnh ghi nhận và đánh giá cao. Cuối khoá
100% học viên tốt nghiệp ra trường, trong đó, tỷ lệ Khá, Giỏi đạt 80-90%. Kết
quả đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường góp phần không nhỏ vào việc chuẩn hóa đội
ngũ cán bộ tỉnh Nam Định theo Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 25/7/2011 của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị
trấn từ năm 2011-2015 và những năm tiếp theo; chuẩn hóa đội ngũ cán bộ phục vụ
nhân sự Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020; đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2016-2021; thực hiện 01 trong 19 tiêu chí xây dựng nông thôn
mới và đặc biệt góp phần triển khai thực hiện Nghị quyết số 09 ngày 20/10/2016
của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý các cấp từ năm 2016-2020 và những năm tiếp theo.
Đối với giảng viên của trường Chính trị Trường Chinh, ngoài
nhiệm vụ giảng dạy, những năm qua nhà trường rất chú trọng công tác nghiên cứu
khoa học, tổng kết thực tiễn. Năm 2017, Hội đồng khoa học nhà
trường duyệt thuyết minh và thông qua 6 đề tài khoa học cấp trường của 5 đơn vị
khoa, phòng. Các đề tài khoa học tập trung vào các vấn đề thực tiễn đang đặt ra
có tính ứng dụng cao. Chẳng hạn “Phát
triển đội ngũ nữ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện
nay”;“Nghiên
cứu thực tế tại trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định trong tình hình
mới”. Xuất bản 3 cuốn nội
san Thông tin lý luận và thực tiễn chào mừng 87 năm ngày thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2017) và 110 năm ngày sinh của Tổng Bí thư Trường
Chinh (9/2/1907- 9/2/2017); 100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga và 35 năm Ngày Nhà
giáo Việt Nam (20/11/1982-20/11/2017); nhiều bài viết bài được đăng trên
các tạp chí của Trung ương và trên 100 bài, tin viết cho đề tài khoa học cấp
trường, hội thảo khoa học cấp trường, cấp khoa, đăng trên nội san và Website
của nhà trường. Nghiên cứu thực tế trong những năm gần đây được nhà trường tích
cực đổi mới theo hướng thiết thực, khoa học và hiệu quả nhằm tổng kết thực tiễn
phục vụ bài giảng với phương châm lý luận gắn liền với thực tiễn. Nâng cao
trách nhiệm của giảng viên trong hoạt động hướng dẫn học viên đi nghiên cứu
thực tế theo quy định của chương trình đào tạo.
Các hoạt động phục vụ dạy và học
khác như hoạt động thao giảng, xây dựng giáo án mẫu, đánh giá chất lượng giảng
dạy, chất lượng học tập của học viên cũng có sự đổi mới. (Sử dụng hình thức vấn
đáp trong kỳ thi hết môn, tổ chức Hội thi “Học viên học giỏi lý luận chính
trị”,…).
Đội ngũ cán bộ, giảng viên dù đã cố gắng, nỗ lực song
vẫn còn tình trạng một số bài giảng mang nặng tính lý thuyết, tính thực tiễn
còn nghèo nàn nhất là đối với đội ngũ giảng viên trẻ. Các chương trình giảng
dạy của nhà trường mới chỉ tập trung vào chương trình đào tạo Trung cấp lý luận
chính trị - hành chính, các chương trình liên kết đào tạo, chương trình bồi
dưỡng theo chức danh, cập nhật kiến thức, bồi dưỡng cán bộ nguồn thực hiện còn
ở mức độ nhất định thậm chí chưa thực hiện được.
Phát huy thành tích đã đạt
được, khắc phục hạn chế những tháng cuối năm 2017 và những năm tiếp theo, nhà
trường cần tập trung khai thác có hiệu quả các nguồn lực; tranh thủ sự lãnh
đạo, chỉ đạo, sự quan tâm đầu tư của Tỉnh ủy, UBND tỉnh; sự phối kết hợp và tạo
điều kiện của các sở, ngành, địa phương trong tỉnh, phấn đấu hoàn thành
vượt mức các chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Một là, tiếp tục thực hiện tốt công tác tham mưu với tỉnh trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, góp phần chuẩn hóa đội ngũ, đáp ứng nhiệm
vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và sự phát
triển của tỉnh Nam Định nói riêng. Nâng cao chất lượng toàn diện công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, tiếp tục mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình đào
tạo, bồi dưỡng, tập trung thực hiện chương trình bồi dưỡng cán bộ theo chức
danh, cán bộ nguồn. Đội ngũ cán bộ, giảng viên nhà trường phải xác định trách
nhiệm truyền đạt Nghị quyết đại hội, Nghị quyết trọng tâm của Đảng bộ các cấp
trong bài giảng một cách thích hợp là việc làm thường xuyên.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên đủ về số lượng, cơ
cấu hợp lý, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn cao, chú ý đến
tiêu chuẩn của đội ngũ kèm theo Quyết định số 1855/QĐ-HVCTQG ngày 21/4/2016 của
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về việc ban hành bộ Quy chế quản lý đào
tạo của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nghị quyết 09
của Đảng bộ tỉnh và các quy định hiện hành của Đảng và Nhà nước. Trong đó chú
trọng việc tham mưu với tỉnh phê chuẩn Đề án đưa giảng viên đi thực tế có thời
hạn tại cơ sở.
Ba là, chú trọng đổi mới cách thức quản lý quá trình giảng dạy,
nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế của giảng viên; quá trình học tập, rèn
luyện của học viên, chú ý đúng mức tới việc rèn luyện tư tưởng, đạo đức, lối
sống, phong cách của cả giảng viên và học viên; làm tốt công tác thanh tra,
kiểm tra, đánh giá học viên đảm bảo thực
chất, kiên quyết chống căn bệnh thành
tích; phối hợp một cách hiệu quả với các cơ quan, đơn vị cử người đi học để
quản lý học viên.
Bốn là, tiếp tục giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong nhà
trường, xây dựng Đảng bộ và các tổ chức đoàn thể vững mạnh. Nghiêm túc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội
bộ”; Chỉ thị số 05- CT/TW ngày 15/5/2016 của
Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đồng thời tăng
cường xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công
tác dạy và học của nhà trường.
Năm là, tiếp tục tham mưu hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật
phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý, giảng dạy và phục vụ theo hướng khoa học,
hiện đại nhằm từng bước xây dựng trường Chính trị cấp tỉnh đạt chuẩn theo quy
định của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Công tác cán bộ được Đảng
bộ tỉnh Nam Định xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ
2015-2020 trong đó đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là khâu quan trọng. Với quyết tâm chính trị cao nhất, cán bộ, giảng viên,
nhân viên trường Chính trị Trường Chinh không ngừng nỗ lực, sáng tạo, đổi mới
trong mọi hoạt động nhằm đưa Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh vào thực tiễn cuộc
sống, xứng đáng với truyền thống cách mạng của quê hương Nam Định như lời căn
dặn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong dịp về thăm và làm việc với nhà
trường./.
CÁCH MẠNG
THÁNG MƯỜI VÀ LÃNH TỤ HỒ CHÍ MINH
PGS,TS.
TRẦN ĐỨC MINH
Chủ tịch
Hội KHLS tỉnh Nam Định
Đã 100 năm trôi qua kể từ ngày
tiếng pháo lệnh của chiến hạm Rạng Đông trên sông Nhêva, mở đầu cuộc tấn công
cách mạng vào Cung điện Mùa Đông ở thủ đô Pêtrôgrát, sào huyện cuối cùng của
chính phủ tư sản Nga. Đó là ngày 25-10 (theo lịch Nga) tức ngày 7-11-1917
(Dương lịch). Sự kiện này đánh dấu thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga
vĩ đại, là mốc son chói lọi khắc vào lịch sử nhân loại, mở đầu thời hiện đại,
thời đại của bão táp cách mạng, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên
chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên phạm vi toàn thế giới; cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917 là cuộc cách mạng vô sản thắng lợi đầu tiên trên thế giới. Ý nghĩa và
những bài học lịch sử của nó vẫn nguyên vẹn giá trị đến ngày nay.
Từ giữa thế kỷ XIX, các nước tư
bản châu Âu và Bắc Mỹ đã bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa “giai đoạn tột
cùng của CNTB (Lênin). Năm 1861, nước Nga làm cuộc cải cách nông nô và cũng
đứng vào hàng ngũ các nước đế quốc ở châu Âu với các đặc điểm chung của chủ
nghĩa đế quốc: tư bản lũng đoạn tài chính, xâm chiếm và tranh giành thuộc địa,
chiến tranh đế quốc, sự bần cùng hóa của giai cấp cần lao… Tuy nhiên, nước Nga
Sa hoàng là nước đế quốc kém phát triển nhất trong các nước đế quốc. Trên lãnh
thổ rộng lớn của nước Nga Sa hoàng, có tới hơn 100 dân tộc khác nhau. Các dân
tộc thuộc địa của đế quốc Nga bị rên xiết dưới hai ách áp bức: ách áp bức dân
tộc của chế độ Nga hoàng và ách áp bức giai cấp của bọn chúa đất và tư sản địa
phương. Nước Nga Sa hoàng bấy giờ, như V.I Lênin nhận định, là “nhà tù của các
dân tộc”. Nước Nga Sa hoàng là “con nợ của thế giới” (ngay từ năm 1890, chính
phủ Nga hoàng đã nợ của Anh và Pháp gần 8 tỷ rúp vàng), phải cùng tham chiến
một phe với các nước chủ nợ như Anh, Pháp trong cuộc chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914-1918), nên nền kinh tế càng suy kiệt hơn, mâu thuẫn giai cấp và mâu
thuẫn dân tộc ngày càng sâu sắc hơn. Nước Nga Sa hoàng bị lệ thuộc nhiều vào
các nước tư bản giàu mạnh. Nước Nga là sự pha trộn giữa chủ nghĩa tư bản và sự
tồn tại rất nặng nề những tàn tích phong kiến - nông nô. Tuy vậy, nước Nga lại
có đội ngũ công nhân tuy số lượng không đông, nhưng có truyền thống và được tôi
luyện trong đấu tranh cách mạng qua các cuộc cách mạng 1905, cách mạng dân chủ
tư sản tháng Hai 1917, đặc biệt là lớp công nhân các ngành đại công nghiệp, sớm
xây dựng được chính đảng tiền phong, cách mạng chân chính của mình. Công nhân
Nga là động lực chính của cuộc cách mạng vô sản Nga.
V.I.Lênin từng nhận định: nước Nga
tập trung tất cả những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa đế quốc, là khâu yếu nhất
trong dây chuyền chủ nghĩa đế quốc. Vào đầu thế kỷ XX, tình thế một cuộc cách
mạng vô sản đã xuất hiện và ngày một hiện hữu ở nước Nga, khi cuộc chiến tranh
thế giới lần thứ nhất đang diễn ra. V.I.Lênin, người kế tục sự nghiêp của C.Mác
và Ph.Ăng-ghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, trở thành lãnh tụ
không chỉ của giai cấp vô sản Nga, mà còn là lãnh tụ của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động thế giới. Bằng trí tuệ khoa học và cách mạng siêu việt của
mình, sau nhiều năm hoạt động ở nước ngoài, V.I.Lênin đã phát triển học thuyết
Mác thành học thuyết Mác-Lênin, đã sáng lập Đảng Bônsêvic Nga, đảng vô sản kiểu
mới theo tư tưởng của Lênin và thông qua tổ chức này lãnh đạo công nhân và nông
dân Nga làm cuộc cách mạng “Mười ngày rung chuyển thế giới” như cách gọi của
Giôn Rít, nhà báo Mỹ nổi tiếng hồi ấy đã viết.
Tình hình nước Nga “đêm trước
cách mạng” biến chuyển rất mau lẹ. Đêm 3-4-1917, Lênin từ Thụy Sĩ bí mật về thủ
đô Pêtrôgrát (nay là Saint Petersburg). Ngày 4-4-1917, tại điện Tavritrécxki,
Pêtrôgrát, trước Ban Chấp hành Trung ương Đảng Bônssêvic Nga và Ban Chấp hành
Đảng bộ Pêtrôgrát, Người đã trình bày
bản báo cáo quan trọng “Nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng hiện
nay” (sau này đã đi vào lịch sử với tên gọi Luận
cương tháng Tư nổi tiếng) đặt ra hàng loạt vấn đề cần kíp cho cuộc cách
mạng vô sản đang tới gần. “Luận cương tháng Tư” của V.I.Lênin, được coi như tư
tưởng và kim chỉ nam hành động của Đảng Bônsêvic tiến hành thắng lợi cuộc cách
mạng vô sản sau đó không lâu. “Trong Luận cương tháng Tư”, V.I.Lênin đã chỉ rõ:
đây là cuộc cách mạng vô sản do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, dùng bạo
lực cách mạng của quần chúng thủ tiêu giai cấp tư bản và giai cấp phong kiến,
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội, tiến tới xây dựng
một xã hội không có người bóc lột người; động lực cách mạng là công nhân liên
minh với nông dân trong các tổ chức gọi là Xô Viết, cách mạng phải kịp thời,
kiên quyết… Một vấn đề đặc biệt quan trọng mà Lênin nêu ra là vấn đề tạo và nắm
bắt thời cơ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân
dân và vấn đề rút nước Nga ra khỏi cuộc chiến tranh đế quốc. Vấn đề này thực tế
đã được Lênin và Đảng Bônsêvic giải quyết rất thành công trước và trong cuộc
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân.
Đêm 24 rạng sáng 25 tháng Mười
(theo lịch Nga, tức 7 tháng 11 Dương lịch) năm 1917, tiếng gầm vang của đại bác
từ chiến hạm Rạng Đông trên sông Nhêva báo hiệu mở đầu cuộc Cách mạng tháng
Mười bằng cuộc tấn công thắng lợi của quần chúng cách mạng vào Điện Smolny ở
Cung điện Mùa Đông tại thủ đô Pêtrôgrat, sào huyệt Chính phủ lâm thời của giai
cấp tư bản Nga (xuất hiện từ cuộc cách mạng tháng Hai 1917). Toàn bộ các thành
viên chính phủ lâm thời tư sản (trừ Kêrenxki trốn thoát) đầu hàng và bị bắt.
Chính phủ Xô Viết đầu tiên được thành lập, gọi là Hội đồng Ủy viên nhân dân, do
V.I.Lênin đứng đầu. Ngay đêm 26-10-1917, nghĩa là chỉ một ngày sau khi cuộc
khởi nghĩa vũ trang thắng lợi ở thủ đô Pêtrôgrát, chính quyền Xô Viết đã ban bố
hai sắc lệnh nổi tiếng: Sắc lệnh hòa bình và Sắc lệnh ruộng đất do Lênin dự
thảo, tuyên bố rút nước Nga ra khỏi chiến tranh thế giới lần thứ nhất và giải
quyết kịp thời vấn đề ruộng đất cho nông dân, giải phóng các dân tộc thuộc địa
của Nga hoàng, thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Chính quyền Xô Viết
sau đó đã được thành lập ở khắp nơi trên nước Nga rộng lớn, các giai cấp bóc
lột thống trị bị thủ tiêu, chính quyền của chúng đã bị đập tan.
Sau thắng lợi vĩ đại của Cách
mạng Tháng Mười, nước Cộng hòa Xô Viết non trẻ gặp muôn vàn khó khăn thử thách:
Nạn đói, nạn thất học, các lực lượng phản cách mạng tăng cường chống phá, đặc
biệt nạn ngoại xâm, khi 14 nước đế quốc can thiệp vào nước Nga cách mạng, hòng
tiêu diệt nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, suốt hơn 3 năm (từ 1918 đến 1920). Năm 1918, lãnh tụ
V.I.Lênin bị kẻ thù ám sát, bị thương nặng. Đây là tổn thất rất lớn đối với
Đảng và Nhà nước Xô Viết lúc bấy giờ. Song, nằm trên giường bệnh, V.I.Lênin vẫn
không ngừng làm việc, chỉ đạo Bộ thống soái tối cao của Đảng Bônsêvic và Nhà
nước Xô Viết thực hiện khéo léo “Chính sách cộng sản thời chiến”, động viên
tinh thần yêu nước của toàn dân kiên quyết đứng lên chống thù trong giặc ngoài,
bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được. Chính nhờ tinh thần cách mạng kiên
cường của toàn dân Xô Viết dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Lênin, nước Nga Xô Viết
đã vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo, nội chiến và can thiệp của các nước đế quốc
ở nước Nga đã chấm dứt. Ngày 31-12-1922, Liên Bang Cộng hòa XHCN Xô viết (gọi
tắt là Liên Xô) được thành lập (với 4 nước Cộng hòa Xô Viết ban đầu trong Liên
bang là Cộng hòa XHCN Xô Viết Liên bang Nga, Cộng hòa XHCN Xô Viết Ucraina,
Cộng hòa XHCN Xô Viết Bêlarútsia và Cộng hòa XHCN Xô Viết Ngoại Cápcadơ).
Cuộc cách mạng XHCN tháng Mười
Nga năm 1917 có ý nghĩa lịch sử trọng đại không chỉ với nước Nga mà còn đối với
thế giới
Cách mạng Tháng Mười đã mở ra kỷ
nguyên mới đối với nước Nga, kỷ nguyên giai cấp cần lao Nga và các dân tộc bị
áp bức không phải Nga, được giải phóng, đứng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận
mệnh của mình. Một chế độ xã hội mới – chế độ xã hội XHCN, đã được thiết lập
với mục tiêu cao cả là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng xã hội tự
do, hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh.
Cách mạng tháng Mười Nga đã có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử và cục diện thế giới. Thắng lợi của
cách mạng XHCN tháng Mười và sự ra đời của Nhà nước XHCN Xô viết đã chặt đứt
một mắt xích quan trọng trong dây chuyền chủ nghĩa đế quốc. Thế giới đã phân
chia thành hai hệ thống xã hội đối lập: hệ thống xã hội tư bản chủ nghĩa và hệ
thống xã hội XHCN.
Cách mạng Tháng Mười đã cổ vũ
mạnh mẽ cách mạng vô sản toàn thế giới, mở ra một thời kỳ mới trong phong trào
giải phóng dân tộc, là ngọn cờ vẫy gọi, thức tỉnh và cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ latinh vùng lên giải phóng.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng
tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc
lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có
ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Đối với riêng cách mạng Việt Nam
và lãnh tụ Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Mười Nga có ý nghĩa và ảnh hưởng vô
cùng to lớn. Như chúng ta đã biết, trong quá trình đi tìm đường cứu nước, năm
1917, khi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đang đi đến giai đoạn kết
thúc, Nguyễn Ái Quốc từ nước Anh trở lại nước Pháp. Tại đây, Người vừa hoạt
động sôi nổi trong phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, vừa
ra sức nghiên cứu về một số cuộc cách mạng điển hình thời cận đại, như cuộc
chiến tranh giành độc lập của nước Mỹ (năm 1776), cuộc đại cách mạng tư sản
Pháp (năm 1789)… và rất tâm đắc với tư tưởng nhân quyền và dân quyền của cách
mạng Mỹ, với tư tưởng Tự do - Bình đẳng - Bác ái của cách mạng Pháp. Đặc biệt, với nhãn quan chính trị
nhạy bén, khi được tin cuộc Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga thắng lợi, Người đã
hướng toàn bộ tâm trí của mình vào cuộc cách mạng vĩ đại này. Tháng 7-1920,
Nguyễn Ái Quốc bắt gặp “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của
V.I.Lênin, đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp. Say sưa nghiên cứu tác
phẩm này, Người vô cùng sung sướng, tìm thấy ở đó ánh sáng của con đường cứu
nước chân chính. Sau này hồi tưởng lại, Người nói: “Luận cương của Lênin làm
cho tôi rất cảm động, mừng đến phát khóc lên. Ngồi trong phòng một mình mà tôi
như muốn nói to lên trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ!
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Từ
đó, Người tin theo Lênin, tin theo Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập năm 1919.
Cuối năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội Đảng xã hội Pháp ở thành phố Tua
và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu
tiên.
Cuối năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến
Liên Xô. Năm 1924, Người tham dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản được tổ chức ở
Maxcơva, với tư cách là đại biểu chính thức và được bầu là Ủy viên Bộ Phương
Đông, trực tiếp phụ trách Cục phương Nam của Quốc tế Cộng sản. Được tin
V.I.Lênin vĩ đại từ trần, Người vô cùng đau xót, đã viết bài báo “Lênin và các
dân tộc thuộc địa”, đăng trên báo Sự thật, cơ quan ngôn luận của Đảng Bônsêvic
Nga, ngày 27-1-1924. Trong bài báo, Nguyễn Ái Quốc viết về Lênin với lòng thành
kính: “Khi còn sống, Người là cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta.
Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng
XHCN”. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, trước
khi Nguyễn Ái Quốc tới, đã có một tổ chức yêu nước của những thanh niên trẻ
tuổi từ Việt Nam sang, gọi là Tâm Tâm Xã hoạt động, song chương trình hành động
chưa rõ ràng, phương thức đấu tranh chưa khoa học. Trước tình hình đó, Người đã
cải tổ Tâm Tâm Xã thành một tổ chúc cách mạng với tên gọi Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên. Trên cơ sở Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Người tổ chức
nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo thanh niên yêu nước Việt Nam thành cán
bộ cách mạng, những cốt cán cho cách mạng. Từ 1925 đến 1927, có 75 người được
dự các lớp huấn luyện này. Các lớp học thường do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giảng
dạy. Sau khi được huấn luyện, một số cán bộ được chọn cử đi học tiếp tại trường
Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản (ở Liên Xô), hoặc trường quân sự Hoàng
Phố (Trung Quốc), còn phần lớn được cử về nước hoạt động. Những bài giảng của
Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu được tập hợp thành cuốn sách
lý luận cách mạng nổi tiếng “Đường Kách mệnh”, được Hội liên hiệp các dân tộc
bị áp bức ở Á châu (tổ chức do Người sáng lập) xuất bản năm 1927. Đây là tác
phẩm lý luận hoàn chỉnh đầu tiên đặt nền móng cho Cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam, được ví như tác phẩm “Làm gì” của V.I.Lênin đối với cách mạng Nga.
Trong tác phẩm bất hủ này, Nguyễn Ái Quốc đi sâu phân tích các cuộc cách mạng
đã diễn ra trên thế giới, những bài học lịch sử của Cách mạng XHCN Tháng Mười
Nga vĩ đại và khẳng định một loạt tư tưởng cơ bản về chiến lược và sách lược của
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước giành độc lập dân tộc
không có con đường nào khác là đi theo con đường cách mạng vô sản, con đường
của Cách mạng Tháng Mười; muốn cho cách mạng thắng lợi cần có Đảng của giai cấp
công nhân, đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Lênin lãnh đạo; cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, thực hiện công - nông liên minh, công nông là gốc cách mạng;
phải dùng bạo lực cách mạng của quần chúng chống lại bạo lực phản cách mạng,
giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền; cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới, cách mạng phải kiên quyết, dứt khoát… Những hoạt động
không mệt mỏi của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian này chính là tiếp tục chuẩn bị
các điều kiện chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng vô sản
Việt Nam.
Sau khi thống nhất ba tổ chức
cộng sản ở Việt Nam là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn (ba tổ chức này ra đời vào cuối năm 1929 đầu 1930),
tại Hội nghị hợp nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) thành một đảng duy nhất là
Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng Mười năm 1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông
Dương), Nguyễn Ái Quốc có thời gian khá dài hoạt động, học tập và làm việc tại
Liên Xô, trong Quốc tế Cộng sản. Thời kỳ này, Người viết nhiều bài về lãnh tụ
Lênin, về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với tình cảm nồng nàn và biết ơn
sâu nặng đối với Lênin, đối với quê hương Cách mạng Tháng Mười.
Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nòng cốt, vận dụng sáng
tạo những bài học kinh nghiệm của cuộc Cách mạng tháng Mười, lãnh tụ Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã dẫn dắt nhân dân ta làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
thắng lợi bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 vĩ đại, đánh thắng hai đế quốc to
là Pháp và Mỹ, đưa nước Việt Nam độc lập, thống nhất tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Kỷ niêm 100 năm cuộc Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga vĩ
đại, kỷ niệm 90 năm ra đời tác phẩm “Đường Kách mệnh”, chúng ta tự hào và biết
ơn Cách mạng Tháng Mười, vì “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại đã vạch ra, con
đường Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to
lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với
Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại… là vô cùng sâu sắc”.
Chúng ta tự hào và biết ơn Đảng quang vinh và Bác Hồ
vĩ đại tuyệt đối trung thành và không ngừng làm phong phú chủ nghĩa Mác-Lênin,
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành
động cách mạng của mình, đưa dân tộc ta tiếp tục đi tới bến bờ vinh quang hạnh
phúc./.
CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA - MỞ ĐẦU THỜI
ĐẠI MỚI
TRONG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NHÂN LOẠI
TS. ĐỚI VĂN TẶNG
Trưởng
khoa Xây dựng Đảng
Cách đây vừa tròn một thế kỷ, ngày 7-11-1917, tại nước
Nga, dưới sự lãnh đạo thiên tài của lãnh tụ V.I.Lênin và Đảng Bôn - sê - vích
Nga, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã đứng lên làm cách mạng, lật
đổ chế độ Sa hoàng, lập nên nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, mở đầu
thời đại mới - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) trong tiến trình
lịch sử phát triển của xã hội loài người. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã khẳng định vai trò và sức sáng tạo của
đông đảo quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền, tiến
hành xây dựng một xã hội mới, xã hội XHCN chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Cách mạng Tháng Mười Nga còn là bước ngoặt vĩ đại mở đường đưa Chủ nghĩa Mác -
Lênin thâm nhập vào phong trào đấu tranh của nhân dân các dân tộc bị áp bức
trên thế giới, soi rọi con đường giải phóng dân tộc cho giai cấp công nhân và
nhân dân các nước thuộc địa. Đó là con đường Cách mạng vô sản. Dưới ngọn cờ của
Cách mạng Tháng Mười Nga và ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thế kỷ
XX, các dân tộc bị áp bức, phụ thuộc của chủ nghĩa thực dân từ châu Á, châu Phi
đến châu Mỹ La - tinh đã vùng lên đấu tranh lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa
đế quốc, thực dân, làm suy yếu và chọc thủng từng mảng lớn hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc, giành được độc lập, tự do, đưa các dân tộc thuộc địa
tiến lên từ “vương quốc tất yếu”, đến “vương quốc tự do”. Nhân dân lao động lầm
than đã trở thành người làm chủ xã hội mới, nhiều quốc gia, dân tộc đã lựa chọn
con đường đi lên CNXH, trong đó có Việt Nam và cách mạng ở mỗi nước đã trở
thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới.
Với thắng lợi
của cách mạng vô sản ở Nga và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng Bôn - sê - vích
trong đấu tranh giành chính quyền. Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, người con
yêu nước của dân tộc Việt Nam Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trên hành trình tìm
đường cứu nước, Người đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc mình trong bản
Luận cương của V.I.Lênin “Về vấn đề dân
tộc và dân tộc thuộc địa”, đó là con đường cách mạng vô sản, con đường cách
mạng giải phóng triệt để nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột. Đánh giá sự kiện lịch sử trọng đại
này, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Giống như
mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh
hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái đất. Trong lịch sử
loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Khác với cuộc cách mạng tư sản thay thế ách thống trị
phong kiến bằng ách thống trị của giai cấp tư sản. Cách mạng Tháng Mười không
chỉ tuyên bố những lý tưởng cao cả, mà nó còn là cuộc cách mạng thực sự hành
động vì những lợi ích thiết thân nhất của nhân dân lao động khắp năm châu, lần
đầu tiên trong lịch sử quyền tự quyết của các dân tộc đã trở thành hiện thực,
đem lại nhà máy, hầm mỏ cho công nhân, ruộng cày cho nông dân và tự do, hạnh
phúc cho mọi người cần lao. Tiếp nhận ngọn lửa Cách mạng Tháng Mười, ngay từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội (CNXH), khẳng định đường lối cách mạng vô sản là tất yếu
khách quan, coi đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Đảng
đã lãnh đạo nhân dân ta đứng lên làm cách mạng lật đổ chế độ phong kiến và đập
tan ách thống trị của bọn thực dân, đế quốc làm nên Cách mạng Tháng Tám
thành công, thành lập nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, tiến hành đấu tranh giành
đại thắng mùa Xuân năm 1975 thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Ngày nay, sau
sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô, các thế lực
thù địch vẫn tiếp tục âm mưu, điên cuồng chống phá cách mạng XHCN, mưu toan phủ
nhận mọi thành quả Cách mạng Tháng Mười Nga và cơ sở tư tưởng của cuộc cách
mạng – chủ nghĩa Mác – Lênin vĩ đại. Những âm mưu, thủ đoạn chống phá CNXH của
các thế lực thù địch trong nhiều thập kỷ qua càng làm nổi bật tầm vóc, ý nghĩa
và giá trị vượt thời đại của cuộc Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga vĩ đại.
Nhận thức sâu sắc tình hình, nguyên nhân và bài học
kinh nghiệm sau các sự kiện chính trị xảy ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, đồng thời
kiên quyết khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong quá trình xây dựng CNXH ở
nước ta trong những năm cuối thập niên 70 của thế kỷ XX. Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (1986) của Đảng, Đảng ta đã khởi xướng, lãnh đạo nhân dân ta
tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và thu được những thành có ý
nghĩa lịch sử. Với những thành tựu to lớn đó là do Đảng ta luôn quán triệt và
kiên định nguyên tắc chỉ đạo trong công cuộc đổi mới đó là: Đổi mới trên nền
tảng tư tưởng lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vì mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng không
dao động, bi quan, đổi hướng, thay đổi mục tiêu, con đường đã chọn. Đó vừa là
tư tưởng, tình cảm, vừa là sự lựa chọn cách thức, bước đi phù hợp với điều kiện
cụ thể của nước ta, để tiếp tục hiện thực hóa con đường mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn - con đường cách mạng vô sản - Cách mạng
Tháng Mười Nga bất diệt.
Trong giai đoạn cách mạng mới, tình hình thế giới còn
nhiều diễn biến phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường, thời kỳ quá độ đi
lên CNXH có nhiều cơ hội và thách thức đan xen. Song, dưới ánh sáng của mặt
trời chân lý học thuyết Mác - Lê-nin và dấu ấn lịch sử của cuộc Cách mạng XHCN
Tháng Mười Nga vẫn luôn tỏa sáng soi đường, dẫn lối cho toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đẩy mạnh công cuộc
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
lần thứ XII của Đảng, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, vững bước đi lên xây dựng CNXH, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
đã lựa chọn và kiên định./.
BÀI HỌC CỦA CÁCH
MẠNG THÁNG MƯỜI NGA
VÀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
CN. LÊ TIẾN DŨNG
Trưởng
phòng Nghiên cứu khoa học - TT - TL
Nhân kỷ niệm 100 năm
thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, 90 năm ấn hành xuất bản tác phẩm “Đường
Kách mệnh”, đối chiếu với thực tiễn vận động của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm
qua, chúng ta càng thấy rõ giá trị lý luận, giá trị thực tiễn trong tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc thực hiện sứ mệnh lịch sử của những người cộng sản Việt Nam.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, để định hướng làm cách
mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ việc tổng kết thực tiễn của cách mạng thế giới
đưa ra các bài học định hướng cho người làm cách mạng với lối viết chính luận
đặc biệt, ngắn gọn, giản dị và cô đọng. Người đã khái quát “tư cách một người cách mệnh” cả về nhận thức, tư chất, mối quan hệ
và hành động cách mạng. Tác phẩm “Đường Kách mệnh” tư tưởng xuyên suốt là việc
làm rõ khái niệm thế nào là cách mệnh (theo Bác) như lý do viết cuốn sách, cách
mệnh là gì; cách mệnh có mấy thứ (ba thứ: tư
bản cách mệnh, dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh), lý do làm cách
mệnh, làm cách mệnh khó hay dễ và ai là người thực hiện và sau này chúng ta gọi
là cách mạng. Trong tác phẩm hàng loạt
luận điểm, tiêu chuẩn được Người chỉ ra như: Tư cách một người làm cách mệnh,
ai là những người cách mệnh, cách mệnh trước tiên phải làm gì…
Nội dung rất lớn mà tác phẩm đề cập, đó là việc tổng
kết các cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, dân quyền của các quốc gia trên thế
giới (cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp và đặc biệt là cách mạng Nga); luận giải
khoa học về ý nghĩa lịch sử, lý do phải tiến hành các cuộc cách mạng, kết quả,
ý nghĩa của các cuộc cách mạng đó đối với các dân tộc bị áp bức và đặc biệt là
ý nghĩa đối với cách mạng “An Nam” (Việt Nam).
Nhân kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười, 90 năm ấn
hành tác phẩm “Đường Kách mệnh”; bài viết chỉ chia sẻ bài học nhận thức về cách
mạng Tháng Mười trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”. Trong tác phẩm, để có bài học
lịch sử về Cách mạng Tháng Mười đối với việc tiến hành cách mạng “An Nam” (Việt Nam); Bác đã nêu ra 13 luận điểm
cụ thể phân tích gốc rễ nguyên nhân của cách mạng Nga và kết thúc thắng lợi là
Cách mạng Tháng Mười do chính Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích lãnh đạo; đây là kết
quả của việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác của V.I.Lênin vào tình hình nước
Nga để tiến hành cách mạng.
Trong “Đường Kách mệnh”, Bác đã đi từ việc chỉ rõ căn
nguyên “nguyên do” đầu tiên của cuộc
cách mạng ở nước Nga đó là cuộc cách mạng của nông dân, cách mạng “thổ địa”; cuộc cách mạng của những
người lao động “hơn 90 phần là dân cày,
không đầy 10 phần là thợ thuyền” đấu tranh chống áp bức, bất công; cuộc
cách mạng tạo ra sự phân hóa ngay trong các tầng lớp bóc lột của xã hội Nga “Tư bản mới và địa chủ từ đấy mới sinh hiềm
khích” và nảy sinh yêu cầu khách quan liên minh giai cấp “Công, Nông” trong tiến hành cách mạng “phong triều cách mệnh công nông cũng từ đấy
mọc ra”. Đây rõ ràng là bài học cho Việt Nam ta, một xứ thuộc địa nửa phong
kiến có kết cấu giai cấp và tình hình xã hội tương đồng để tiến hành cách mạng.
Trong tác phẩm, đánh giá về Cách mạng Tháng Mười,
Người chỉ rõ những bài học của cách mạng thổ địa và xu thế liên hiệp giai cấp
chính là nguyên nhân làm sản sinh ra các Đảng cách mệnh ở Nga “Năm 1875 mới có đảng cách mệnh gọi là
"Công nhân giải phóng”. Năm 1878 lại có một đảng mới gọi là "Công
đảng"...”; những sai lầm về chủ trương đánh đổ, tiêu diệt mà chưa có
định hướng trong việc xây dựng một chế độ xã hội mới tiến bộ, chưa tạo ra sự liên hiệp cả dân cày và thợ thuyền làm cả
kinh tế và chính trị cách mệnh. Bác đánh giá đây là sai lầm trong lãnh đạo
cách mệnh, mặc dù hy sinh hết nhiều
người, làm được nhiều sự ám sát oanh liệt, nhưng vì đi sai đường cách mệnh,
không có sức dân chúng làm nền, cho nên bị Chính phủ trị mãi đến nỗi tan.
Đây là bài học xương máu chung cho cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX khi chưa có sự lãnh đạo của Đảng, đó là sự thất bại của các phong trào
yêu nước như Ba Đình (1881- 1887), Cần Vương (1885- 1896), Bãi Sậy (1883-
1892), Hương khê (1885- 1895) và cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra cùng thời điểm
này kéo dài đến năm 1913… điều đó càng chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng
phong kiến đối với xứ mệnh cách mạng giải phóng dân tộc.
Vấn đề này đã minh chứng cho những hạn chế lịch sử,
giai cấp trong đường lối cách mạng của các nhà cách mạng Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh và các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX trong việc tìm ra con đường cách
mạng giải phóng dân tộc.
Chính từ phong trào cách mạng này chính Đảng Cộng sản
đã được hình thành ở Nga theo lập trường của chủ nghĩa Mác vận dụng sáng tạo
của Lênin vào điều kiện cách mạng Nga.
Trong tác phẩm, Bác phân tích tình hình cách mạng,
thái độ của các giai cấp bóc lột; những sai lầm, hạn chế trong liên minh cách
mạng, phương pháp tổ chức cách mạng dân chủ Nga 1905. Qua đó rút ra bài học hết
sức lạc quan là để Đảng nghiên cứu lại,
phê bình lại, sai lầm ở đâu, vì sao mà thất bại? Biết rõ ràng những chỗ khuyết
điểm mà sửa sang lại. Cũng như rèn một con dao, thử cắt mới biết chỗ nào sắc,
chỗ nào cùn; sau cứ theo chỗ cùn mà mài, con dao mới tốt.
Qua thất bại của Cách mạng dân chủ Nga 1905 Bác rút ra
5 bài học cho cách mạng đó là:
Một là, phải
tổ chức vững vàng; Hai là, phải liên lạc với dân cày; Ba là, phải vận động
lính; Bốn là, không tin được tụi đề huề; Năm là, biết tư bản và vua cùng là một
tụi, muốn đuổi vua thì phải đuổi cả tư bản.
Cách mệnh
1905 thất bại làm gương cho cách mệnh 1917 thành công.
Đây không chỉ là bài học xương máu chung cho cách mạng
nước Nga và cách mạng dân chủ thế giới mà còn là bài học sâu sắc cho cách mạng
Việt Nam.
Trong
“Đường Kách mệnh”, Bác phân tích tình hình thế giới và tình hình nước Nga với
những mâu thuẫn giai cấp nội tại không thể giải quyết nổi đó là mâu thuẫn giữa
phong kiến và nông dân; sự tráo trở của chủ nghĩa tư bản trong cách mạng dân
chủ; sự ảo tưởng, sai lầm trong nhận thức và liên minh cách mạng; từ đó Người
khẳng định xứ mệnh lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, chính đảng Đảng
Cộng sản với đường lối cách mạng là: Đảng
Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính phủ công, nông, binh, phát đất ruộng cho
dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền, không bắt dân đi chết cho tư bản và đế
quốc chủ nghĩa nữa, ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới
đại đồng; Đây là tất yếu khách quan, sự lựa chọn của lịch sử phó thác trách
nhiệm cho giai cấp vô sản lãnh đạo công nông làm cách mạng và chính là nguyên
nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Những luận điểm, đánh giá
trong Tác phẩm ở đây không chỉ là bài học tổng kết từ thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917 còn là sự đúc rút khẳng định việc vận dụng sáng tạo Chủ
nghĩa Mác của V.I.Lênin phù hợp với tình hình nước Nga trong lãnh đạo cách mạng
dân chủ chính là sự lựa chọn đúng đắn nhất con đường làm cách mạng.
Với cách mệnh An Nam (cách mạng Việt Nam), Đường Kách mệnh khẳng định một cách cô
đọng những thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga đó là: dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật; đuổi được
vua, tư bản, địa chủ; lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các
thuộc địa; thực sự là mơ ước của nhân dân Việt Nam một xứ thuộc địa nửa
phong kiến. Tại đây Bác cũng khẳng định làm cách mạng là để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Nhìn
rộng ra Bác xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam qua bài học thành công của
Cách mạng Tháng Mười Nga là phải tiến hành đồng thời cách mạng giải phóng dân
tộc và cách mạng dân chủ đánh đổ đế quốc thực dân giành độc lập tự do cho dân
tộc, dân chủ, hạnh phúc, ấm no cho nhân dân trên cơ sở học thuyết Mác-Lênin vận
dụng sáng tạo, phù hợp vào tình hình, điều kiện Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội mặc dù còn muôn vàn khó khăn, thách thức nhưng ta có thể chắc chắn rằng
con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn cho cách mạng nước ta là duy nhất và
hoàn toàn đúng đắn. Tổng kết, đánh giá, bài học về Cách mạng Tháng Mười và sự
lựa chọn của Bác về con đường cách mạng vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực
tiễn giúp chúng ta trong việc lựa chọn, đánh giá, sử dụng cán bộ cách mạng và thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới./.
ĐỒNG CHÍ NGUYỄN VĂN HOAN
NGƯỜI BÍ THƯ TỈNH BỘ VIỆT NAM
CÁCH MẠNG THANH NIÊN ĐẦU TIÊN TỈNH NAM ĐỊNH
PHẠM PHÚ THIỆM
Phó Chủ
tịch Hội KHLS tỉnh Nam
Định
Đồng chí Nguyễn Văn Hoan
sinh tháng 2 năm 1907 ở làng Thượng Lỗi ngoại thành Nam Định, sau gia đình chuyển
về sinh sống ở phố Hàng Sắt thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Thân sinh ra đồng
chí Nguyễn Văn Hoan là cụ Nguyễn Văn Cầu, một nhà nho nghèo làm nghề dạy học,
nhưng không may mất sớm để lại cho cụ bà Nguyễn Thị Chính 6 con nhỏ, 3 trai, 3
gái. Đồng chí Nguyễn Văn Hoan là con thứ 5 trong gia đình. Được sinh ra và lớn
lên trong một gia đình nề nếp với người cha - người thầy giáo nhân từ, thâm
thúy, một người mẹ hiền hậu, đảm đang; ngay từ nhỏ đồng chí Nguyễn Văn Hoan đã
là người con hiếu thảo, biết thương yêu kính trọng cha mẹ, chịu thương, chịu
khó, siêng năng, chăm học, chăm làm. Năm 1923, đồng chí theo học trường Thành
Chung (Thành phố Nam
Định). Bạn học thân thiết của đồng chí lúc ấy là các anh Đặng Xuân Khu (tức đồng
chí Trường Chinh) quê ở Xuân Trường, Lê Đình Thảo quê ở Hải Hậu Nguyễn Năng Độ
quê ở Nghệ An, Nguyễn Đức Cảnh quê ở Thái Bình, các anh đều sàn sàn tuổi nhau
nên rất ý hợp tâm đầu. Khoảng giữa năm 1924 học sinh yêu nước trường Thành Chung
bí mật truyền tay nhau một tờ báo bằng tiếng Pháp Lơ
Pa ri a (Người cùng khổ) từ Paris gửi về. Qua tờ báo đồng chí được biết ở
Việt Nam
ta có ông Nguyễn Ái Quốc rất giỏi, tư tưởng tiến bộ. Những bài ông viết trên
báo này nhằm tố cáo chế độ thuộc địa tàn ác, bất công; viết về đời sống vô cùng
cực khổ của nhân dân Đông Dương dưới sự đô hộ của thực dân Pháp. Ông còn viết cả về nước Nga, về Lênin, C.Mác…
Năm 1925 - 1926, cả nước dấy lên làn sóng đấu tranh đòi ân xá cụ Phan Bội Châu
và để tang cụ Phan Chu Trinh. Phong trào đấu tranh ở các nơi đã thúc đẩy học
sinh trường Thành Chung Nam Định bãi khóa hưởng ứng. Tháng 4 – 1926, giáo viên
và học trò nhà trường tổ chức long trọng lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu
Trinh, đồng chí Nguyễn Văn Hoan đã hăng hái tham gia. Sau lễ truy điệu hơn 60 học
sinh của trường bị đuổi học trong đó có đồng chí. Số học sinh bị đuổi học, người
thì về quê, người thì ở lại thành phố Nam Định kiếm việc làm nhưng hầu hết
là lên Hà Nội. Tháng 5 - 1926, đồng chí Nguyễn Văn Hoan lên Hà Nội ở nhờ nhà
người anh họ gần chợ Gạo. Vốn có tinh thần yêu nước, chứa chất lòng căm thù giặc,
tới Hà Nội đồng chí Nguyễn Văn Hoan cùng bạn bè đã nhanh chóng hòa mình trong
phong trào yêu nước của thanh niên, học sinh thủ đô. Biết đồng chí là người
tích cực vận động và tổ chức cuộc bài khóa và lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh của
thầy trò trường Thành Chung Nam Định; các đồng chí Nguyễn Công Thu, Trịnh Đình
Cửu, Ngô Gia Tự đã trực tiếp theo dõi giúp đỡ và đưa đồng chí vào hoạt động
trong tổ chức cách mạng. Tháng 6-1926, đồng chí được kết nạp vào Việt Nam Cách
mạng Thanh niên tại Hà Nội. Đầu năm 1927, đồng chí được cử đi Quảng Châu (Trung
Quốc) dự lớp bồi dưỡng do Trung ương Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên mở. Nhóm
Hà Nội đi Quảng Châu đợt ấy có ba người gồm: Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Hoan và Phạm
Văn Ngọc. Vào một buổi tối tháng giêng năm 1927 các anh tập trung và ra đi từ
nhà anh Ngô Gia Lễ (anh trai anh Tự) tại phố Hàng Điếu, Hà Nội. Sau những ngày
gian lao vất vả, phải vượt qua những chặng đường đầy khó khăn nguy hiểm, ba đồng
chí đã tới được Quảng Châu. Những người đầu tiên mà các anh được tiếp xúc là
các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn. Sau khi ổn định nơi ăn ở, nghe phổ biến
nội quy lớp học và những điều cần thiết, khóa học được khai giảng ngay. Đồng
chí Hồ Tùng Mậu giới thiệu người giảng bài đầu tiên là đồng chí Lý Thụy. Đó là
một người đứng tuổi, trán cao, mắt sáng, mặc bộ đồ xám. Trên đường sang đây các
anh đều bản nhau ước gì được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Giờ thấy đồng chí Lý
Thụy xuất hiện, không ai bảo ai nhưng đều thầm đoán đồng chí Lý Thụy nhất định
là nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc. Sau hai tháng học tập khẩn trương, khóa học kết
thúc, các anh làm lễ tuyên thệ trước khi về nước… Về tới Hà Nội đồng chí Nguyễn
Văn Hoan gặp lại các đồng chí Phạm Văn Đồng, Nguyễn Công Thu và Nguyễn Danh Đới.
Đồng chí Nguyễn Danh Đới nhân danh bí thư Kỳ bộ Bắc Kỳ giao nhiệm vụ cho đồng
chí Nguyễn Văn Hoan về xây dựng tổ chức cách mạng và phát triển phong trào cách
mạng ở tỉnh Nam Định. Thế là sau một năm bước vào cuộc đời hoạt động cách mạng,
vừa được trưởng thành trong hoạt động thực tiễn, vừa được bồi dưỡng lý luận
cách mạng, giờ đây đồng chí Nguyễn Văn Hoan lại được trở về hoạt động ngay trên
quê hương mình. Về tới Nam
Định (4 – 1927) đồng chí tập trung phát triển cơ sở trong hàng ngũ công nhân ở
các nhà máy. Cùng thời gian ấy đồng chí Trần Trung Tín (cũng được Kỳ bộ cử về)
gây cơ sở trong trí thức, học sinh rồi dần dần mở rộng ra các đối tượng khác.
Thầy giáo Đào Đình Mẫn được kết nạp vào Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở quê
hương Thái Bình, hiện đang dạy học ở thôn Phú An (xã Trực Thành, Trực Ninh) tiếp
tục tuyên truyền, tổ chức trong các nhà giáo, học sinh. Với sự hoạt động tích cực
của các đồng chí, đến giữa năm 1927 ở Nam Định đã hình thành 6 chi hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên đầu tiên mà hội viên chủ yếu là công nhân các nhà máy,
giáo viên, học sinh và một số nhà nho yêu nước. Trước đòi hỏi của phong trào
cách mạng đang phát triển ở Nam Định, Tổng bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhận
thấy cần phải có sự lãnh đạo thống nhất giữa các chi hội ở Nam Định. Tháng 9
năm 1927, đồng chí Nguyễn Danh Đới đại diện kỳ bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên
Bắc Kỳ, về Nam Định triệu tập 3 cán bộ chủ chốt nắm các đầu mối thanh niên ở
Nam Định là các đồng chí Nguyễn Văn Hoan, Vũ Huy Hào, Trần Trung Tín về họp tại
địa điểm nghĩa địa Hoa Kiều (Mỹ Xá, ngoại thành Nam Định). Tại đây các đồng chí
đã bàn bạc trao đổi và thống nhất nhận định: Phong trào cách mạng ở Nam Định đang
có đà phát triển, cần phải đẩy mạnh tuyên truyền và mở rộng phong trào ra toàn
tỉnh. Dưới sự chủ trì của các đồng chí Nguyễn Danh Đới, hội nghị đã quyết định
thành lập Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Định. Ban Chấp hành Tỉnh bộ
lâm thời gồm 3 đồng chí: Đồng chí Nguyễn Văn Hoan, Bí thư phụ trách tổ chức và
giao thông của Kỳ bộ, đồng chí Vũ Huy Hào phụ trách tài chính và kiểm soát, đồng
chí Trần Trung Tín phụ trách tuyên huấn.
Ngoài việc lãnh đạo phong trào Cách mạng ở Nam
Định, tỉnh bộ còn có nhiệm vụ xây dựng cơ sở Cách mạng ở cả Hà Nam và Ninh
Bình. Sau hội nghị, dưới sự lãnh đạo của Ban Tỉnh bộ lâm thời đứng đầu là đồng
chí Bí thư Nguyễn Văn Hoan, mọi hoạt động xây dựng cơ sở và phong trào đấu
tranh cách mạng trong Tỉnh được đẩy mạnh. Nhiều chi hội mới được thành lập ở
các nhà máy, trường học, hãng buôn, thợ thủ công... Tại các huyện Ý Yên, Xuân
Trường, Trực Ninh, Hải Hậu các chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cũng lần
lượt ra đời. Cùng thời điểm này nhiều sách báo, tài liệu bí mật cũng được chuyển
về Nam Định. Trong đó đặc biệt cuốn “Đường Kách mệnh” do đồng chí Nguyễn Ái Quốc
viết, được đồng chí Nguyễn Lương Bằng trao tận tay cho đồng chí Nguyễn Văn Hoan
tại số nhà 91 phố Hàng Cấp (thành phố Nam Định). Đây là tác phẩm lý luận cách mạng
đầu tiên được truyền bá vào Nam Định. Đầu năm 1928 cơ sở và ảnh hưởng của tổ chức
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã rộng khắp từ thành thị đến các vùng nông
thôn Nam Định. Sự lớn mạnh của phong trào đòi hỏi phải củng cố tổ chức, thành lập
một bộ máy lãnh đạo chính thức. Đáp ứng yêu cầu đó, tháng 9 năm 1928, Ban Tỉnh
bộ lâm thời triệu tập hội nghị Đại biểu Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên
Nam Định tại cánh đồng làng Kênh xã Lộc Vượng (ngoại thành Nam Định). Đây là hội
nghị quan trọng sau hơn 1 năm hoạt động của các chi hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên trong tỉnh. Đồng chí Nguyễn Văn Hoan thay mặt cho Ban Tỉnh bộ lâm thời
báo cáo bản kiểm điểm đánh giá tình hình và nêu phương hướng hoạt động trong thời
gian tới. Hội nghị đã thảo luận và ra những quyết nghị quan trọng. Hội nghị đã
bầu ra Ban Chấp hành Tỉnh bộ chính thức gồm 3 đồng chí: Đồng chí Nguyễn Văn
Hoan là Bí thư, các đồng chí Đào Gia Lựu, Vũ Huy Hào là ủy viên Ban Chấp hành.
Sau hội nghị Đại biểu Tỉnh bộ Nam
Định, phong trào Cách mạng trong tỉnh có bước phát triển mạnh ở tất cả các vùng
thành thị và nông thôn.
Đầu năm 1929, đồng chí
Nguyễn Văn Hoan được Kỳ bộ Bắc Kỳ điều về công tác tại tỉnh Ninh Bình. Ngày
21/6/1929, Đông Dương Cộng Sản Đảng Ninh Bình được thành lập, đồng chí Nguyễn
Văn Hoan được bầu làm Bí thư Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ Tỉnh. Ngày
18/11/1929, đồng chí Nguyễn Văn Hoan bị thực dân Pháp bắt và ngày 18/6/1930, thực
dân Pháp đưa đồng chí đi đày tại nhà tù Côn Đảo. Ngày 14/7/1936, cùng với 92
chiến sĩ Cách mạng đang bị giam cầm ở Côn Đảo, đồng chí Nguyễn Văn Hoan được thực
dân Pháp trả tự do. Trở về Nam
Định tháng 8/1936, theo sự phân công của Đảng, đồng chí tiếp tục cùng các đồng
chí lãnh đạo tỉnh Nam
Định đẩy mạnh các hoạt động để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Chiều
ngày 21/8/1945, cả thành phố Nam
Định rợp trong rừng cờ đỏ sao vàng, quần chúng nội, ngoại thành và các huyện
lân cận rầm rộ kéo về dốc Lò Trâu tập trung trước Kỳ đài uy nghi. Ba giờ chiều
cuộc mít tinh khai mạc, nhạc bài Tiến Quân Ca vang lên, cờ đỏ sao vàng tung bay
trước gió. Gần 3 vạn quần chúng hân hoan lắng nghe lời hiệu triệu của Mặt trận
Việt Minh kêu gọi nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố
xóa bỏ chính quyền bù nhìn, thành lập chính quyền cách mạng. Ủy ban nhân dân
Cách mạng lâm thời Tỉnh Nam Định được thành lập gồm 7 người do đồng chí Đặng Châu
Tuệ làm Chủ tịch; Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời thành phố Nam Định được
thành lập gồm 5 người do đồng chí Nguyễn Văn Hoan làm Chủ tịch ra mắt trước
nhân dân. Từ năm 1945 đến 1948, đồng chí Nguyễn Văn Hoan giữ chức Chủ tịch Ủy
ban Liên Việt thành phố Nam Định; từ năm 1948 đến năm 1949, Phó Chủ tịch Ủy ban
Liên Việt Liên khu II kiêm Chủ tịch Ủy ban liên Việt thành phố Nam Định. Năm
1950, đồng chí được điều sang công tác ở lĩnh vực tòa án. Hòa bình lập lại năm
1955, đồng chí làm Viện trưởng Viện công tố Tòa án nhân dân tối cao. Năm 1961,
đồng chí được điều sang công tác ở Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (khi ấy
đồng chí Trường Chinh đang làm trưởng ban).
Là cán bộ tiền bối của Đảng,
đồng chí Nguyễn Văn Hoan tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1926, khi đó ông mới
19 tuổi. Với bản lĩnh và phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, dù ở cương vị
công tác nào ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đã cống hiến cả cuộc đời
mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Ông mất năm 1991,thọ 84 tuổi.
Xét công lao và những
đóng góp to lớn trong quá trình hoạt động cách mạng của ông, Đảng và Nhà nước ta tặng ông nhiều phần thưởng
cao quý.
- Huân chương kháng chiến
chống Pháp hạng Nhất năm 1961
- Huân chương Độc Lập
năm 1984
- Huân chương Kháng chiến
năm 1986
- Huân chương Hồ Chí
Minh năm 1991
TÁC PHẨM "ĐƯỜNG KÁCH MỆNH"
TRONG QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH
CN. TRẦN KHÁNH VÂN
Giảng
viên khoa Xây dựng Đảng
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong khi cách mạng Việt
Nam rơi vào khủng hoảng về đường lối cứu nước, năm 1911, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã sang phương Tây tìm hướng đi mới cho con đường giải phóng dân tộc. Qua quá
trình hoạt động thực tiễn và nhận thức lý luận, Người tìm thấy ánh sáng của chủ
nghĩa cộng sản và trở thành người chiến sỹ cách mạng vào tháng 12-1920. Từ đây,
Người đã tích cực chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng, chính trị và tổ chức để
tiến tới thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam. Tác phẩm Đường Kách mệnh ra
đời là một trong những bước chuẩn bị đó, có ý nghĩa to lớn và vai trò quan
trọng như kim chỉ nam cho đường lối cách mạng trong nước.
Với ngòi bút sắc sảo, Người đã vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn đất nước, toát lên tinh thần
xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm là giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng Tháng Mười Nga, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Về cơ bản,
tác phẩm đã phác thảo ra đường lối cứu nước cho dân tộc; đã cung cấp cho người
đọc thế giới quan duy vật Mác xít, phương pháp hành động cách mạng để cải tạo
hiện thực xã hội thuộc địa nửa phong kiến ở Việt Nam. Vượt qua vòng kiểm soát gắt
gao của kẻ thù, tới tháng 8-1927, tác phẩm được chuyển về Nam
Định. Theo lời của đồng chí Nguyễn Lương Bằng - nguyên Phó Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà (1969-1979) có kể lại: khoảng
tháng 7, tháng 8 năm 1927, tại ngôi nhà
191 phố Hàng Cấp, đồng chí đã trao cuốn Đường Kách mệnh và tờ báo Thanh niên
cho đồng chí Nguyễn Văn Hoan - Bí thư Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
Nam Định từ năm 1927-1929.
Vào những năm 20 của thế kỷ XX, trong lúc phong trào
yêu nước ở Nam Định diễn ra sôi nổi theo các màu sắc chính trị khác nhau nhưng
đều thất bại, đặt ra yêu cầu phải có một tổ chức cách mạng với đường lối chính
trị đúng đắn, tháng 4-1927, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã phân công đồng chí Nguyễn
Văn Hoan, Trần Trung Tín về hoạt động thành lập nên các chi hội trong nhà máy, xí nghiệp,
vùng nông thôn, trường học… dẫn tới hình thành Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
Nam Định (tháng 9-1927). Trong bối cảnh
lịch sử đó, tác phẩm Đường Kách mệnh đã thổi "luồng gió cách mạng
mới" cho phong trào cách mạng Nam Định. Không
chỉ dừng lại là một tài liệu huấn luyện cán bộ, tác phẩm còn là phương thức
quan trọng để Tỉnh bộ Hội tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin
thâm nhập sâu rộng vào trong quần chúng nhân dân, là điều kiện cần để phong
trào cách mạng vô sản có sự chuyển biến về chất. Tác phẩm đã chỉ ra chiều sâu
của lý tưởng và mục tiêu đấu tranh cách mạng, cùng những chỉ dẫn trong hành
động cách mạng cho thanh niên yêu nước Nam Định: muốn làm cách mạng triệt để
thì phải xây dựng lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân cho cán bộ và
quần chúng công - nông - trí; phải đào tạo ra một lớp cán bộ cách mạng; phải
tập hợp, đoàn kết quần chúng trong những tổ chức của Đảng...
Theo đó, tháng 4-1928, Kỳ bộ cử đồng chí Trịnh Đình
Cửu về huấn luyện cho lớp cán bộ chủ chốt của tỉnh. Các đồng chí sau khi hoàn
thành chương trình học tập đã tỏa đi khắp tỉnh để hướng dẫn cho các chi hội,
nhờ đó mà nội dung tuyên truyền của Tỉnh bộ Hội không chỉ dừng lại ở giác ngộ
tinh thần yêu nước mà còn trực tiếp đi sâu vào nội dung cách mạng vô sản, dần
đưa hội viên và quần chúng nhân dân tập dượt đấu tranh đòi quyền lợi thiết thân
hàng ngày cho đến phát triển thành đấu tranh mang ý thức chính trị.
Thực hiện chủ trương vô sản hóa, các
hội viên của Hội thuộc thành phần trí thức, học sinh, tiểu tư sản đã tham gia
lao động trong các nhà máy, xí nghiệp, vừa để rèn luyện, nâng cao lập trường vô
sản; vừa để tăng cường truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, góp phần thúc đẩy phong
trào công nhân Nam Định phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu. Tiêu biểu nhất là
cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy Sợi (tháng 3-1929) biểu thị rõ tinh thần
đoàn kết giai cấp, tính khoa học trong phương pháp tổ chức đấu tranh với kẻ thù. Các
cuộc đấu tranh không chỉ dừng lại ở mục đích kinh tế mà đã mang ý thức giai
cấp, ý thức chính trị sâu sắc. Trước bước tiến của các phong trào công nhân,
tại Đại hội Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (tháng 5-1929), đồng chí
Trần Văn Lan (nguyên Bí thư chi bộ Nhà máy Sợi) đã nêu lên yêu cầu bức thiết là
giải tán Hội để thành lập Đảng Cộng sản đủ khả năng lãnh đạo phong trào đang
lên cao. Do đó, chỉ sau hai ngày sau khi tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời, ngày 19-6-1929, Ban Tỉnh ủy lâm thời Nam Định
được thành lập do đồng chí Nguyễn Hới
làm Bí thư, đề ra chủ trương đấu tranh trong quần chúng, đảng
viên. Từ đây, phong trào cách mạng địa phương đã có Đảng Cộng
sản trực tiếp lãnh đạo và tổ chức thực
hiện. Theo bước chuyển của cách mạng cả nước, nhân dân Nam
Định dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh đã lần lượt giành được những thắng lợi
vĩ đại có ý nghĩa lịch sử và thời đại trong thế kỷ XX, vững bước vào thế kỷ XXI
với vị thế mới trong sự nghiệp đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế.
Như vậy, so với các địa phương khác trên cả nước, Đảng
bộ tỉnh Nam
Định ra đời từ rất sớm. Sớm là bởi ngay từ khi được tiếp nhận tác phẩm Đường
Kách mệnh, dưới sự lãnh đạo của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, những người chiến
sỹ cách mạng đã hiểu hơn bao giờ hết họ chiến đấu vì mục tiêu và lý tưởng cộng
sản; họ được rèn luyện bản thân trong hiện thực đấu tranh với kẻ thù; họ có
kinh nghiệm tổ chức, tập hợp quần chúng đấu tranh; họ đã thực sự được giáo dục
tư cách đạo đức trong môi trường cách mạng. Đó là nguyên nhân trực tiếp thúc
đẩy nhanh quá
trình chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức, đặt ra yêu cầu mới cho cách mạng Nam
Định: kết thúc vai trò lịch sử của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, thành lập
Đảng bộ tỉnh.
Ngày nay, khi ôn lại tác phẩm Đường Kách mệnh gắn với
một phần chặng đường lịch sử Đảng bộ tỉnh, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn
về bổn phận, trách nhiệm của người đảng viên, người công dân đối với Đảng và
dân tộc trong công cuộc đổi mới. Đặc biệt, những giá trị tư tưởng và tinh thần
hành động đạo đức cách mạng trong tác phẩm đã góp phần định hướng cho cán bộ,
đảng viên tự rèn luyện tư cách đảng viên, góp phần phòng, chống suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hoá" trong nội bộ, hướng tới thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 (Khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII
và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 (Khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng./.
ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁCH MẠNG
TRONG TÁC PHẨM “ĐƯỜNG KÁCH MỆNH”
CN. NGUYỄN THỊ HUYỀN
Giảng viên
khoa Lý luận Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ
Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, người đã để lại cho dân tộc ta một
kho tàng tài sản tinh thần vô giá, cùng với đó là các tác phẩm có giá trị vượt
thời gian. Khi thời gian càng lùi xa thì giá trị những tác phẩm đó càng tỏa
sáng, nó minh chứng cho tư tưởng của Hồ Chí Minh là tư tưởng vượt thời đại. Một
trong những tác phẩm đó phải kể đến Đường
Kách mệnh. Đó là tác phẩm được Hồ Chí Minh viết từ những năm hai mươi của
thế thế kỷ XX nhưng đến nay trong thế kỷ XXI, nghiên cứu tác phẩm này, vẫn thấy
nguyên ý nghĩa, giá trị và tính thời sự của nó.
Đường Kách mệnh
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đời có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt
động của cách mạng nước ta. Tác phẩm có vai trò như kim chỉ nam, là cuốn sách
giáo khoa lý luận chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, chấm dứt
thời kỳ khủng hoảng về đường lối chính trị. Đường
Kách mệnh đã mở ra cho dân tộc ta một con đường cách mạng đúng đắn để đấu
tranh giải phóng mình khỏi ách nô lệ, đấu tranh giành độc lập cho dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, tác phẩm đã đặt những viên gạch đầu tiên
làm nền móng xây dựng giá trị đạo đức đối với người cách mạng.
Mở đầu tác
phẩm Hồ Chí Minh ghi rõ luận điểm của Lênin trên trang bìa “không có lý luận
cách mệnh thì không có cách mệnh vận động… chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền
phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” và
Người khẳng định: “lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng
ta trong công việc thực tế, không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.
Người đã khẳng định vai trò định hướng của lý luận, đây là nguyên lý chung, kim
chỉ nam, định hướng chính trị cho người cộng sản và dân tộc Việt Nam trong thực
hiện cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong Đường Kách mệnh, Bác Hồ đã
đưa 23 điều tư cách người cách mạng lên phần đầu của tác phẩm, điều này cho
thấy tầm quan trọng của đạo đức cách mạng, giống như Người đã nói: làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là
một sự nghiệp vẻ vang nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh
rất phức tạp, lâu dài và gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được
xa, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được
nhiệm vụ vẻ vang.
Người đã chỉ ra ba mối quan hệ đối
với mình, đối với người và đối với công việc. Cụ thể, Đối với mình phải: “cần, kiệm; vị công
vong tư, ít lòng ham muốn về vật chất...”; không tự cao, tự đại,
luôn chịu khó học tập, cầu tiến, tự kiểm điểm để phát triển, sửa đổi bản thân. Như vậy, đây chính là những
yêu cầu, tiêu chuẩn của người cách mạng nói riêng và từ đó Người đã khái quát
thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời
đại mới. Nói cách khác đó những chuẩn mực đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt
Nam, là bốn phẩm chất: Trung với nước, hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư; Yêu thương con người và tinh thần quốc tế trong sáng.
Đối với người: “Với từng người thì khoan thứ; Với đoàn thể thì nghiêm;
Có lòng bày vẽ cho người; Trực mà không táo bạo; Hay xem xét người”. Ở đây, Hồ
Chí Minh đã chỉ ra cách ứng xử của người cách mạng trong các mối quan hệ với cá
nhân, với đoàn thể. Cụ thể, với mỗi người thì phải có lòng bao dung, độ lượng,
khoan thứ, luôn giúp đỡ, chân tình, thẳng thắn; không nịnh hót người trên, xem
khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, thật thà, không lừa dối; điều
này gắn với tư tưởng tự phê bình và phê bình của Bác. Mục đích của phê bình là phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm; học cái tốt của nhau và
phê bình cái sai, khuyết điểm của nhau. Phê bình trên tinh thần yêu thương
nhau; phê bình việc chứ không phê bình người,
đây là tinh thần phê bình có ý nghĩa củng cố đoàn kết. Trong mối quan hệ với
đoàn thể cần chấp hành nghiêm kỷ luật, tôn trọng sự lãnh đạo, quyết định của
tập thể. Có thể thấy đây chính là cơ sở để xây dựng các tiêu chuẩn đạo đức phù
hợp với các ngành, lĩnh vực công tác cụ thể; ví dụ đối với lực lượng công an
nhân dân có 6 điều Bác Hồ dạy…
Đối với công việc
phải: “Xem
xét hoàn cảnh kỹ càng; Quyết đoán; Dũng cảm; Phục tùng đoàn thể”. Đây là những
yêu cầu cụ thể về tinh thần, trách nhiệm của người cách mạng đối với công việc;
phải đặt việc chung lên trên, lên trước việc riêng, việc nhà; đã phụ trách thì
phải làm được, cho dù công việc có khó tới đâu cũng phải cố gắng làm. Để hoàn
thành được nhiệm vụ, người cách mạng cần xem xét, nắm kỹ tình hình cụ thể để
tìm ra phương hướng, cách giải quyết cho hiệu quả; cần sự quyết đoán, dũng cảm,
bởi trong nhiều tình huống nếu chậm chễ sẽ hỏng việc; không có lòng dũng cảm,
sợ gian khổ, sợ nguy hiểm, hy sinh sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ. Như vậy,
với ba luận điểm ngắn gọn, khái quát với
tự mình, với người và với công việc,
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những yêu cầu về “tư cách” đối với người cách mạng. Những
yêu cầu đó, Người chỉ ra cách đây 90 năm cho đến hôm nay vẫn còn nguyên ý nghĩa
và tính thời sự. Trong giai đoạn hiện nay để thực hiện được những yêu cầu này
và xứng đáng với tư cách người cách mạng đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên cần
phải:
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên
cần soi mình vào những tiêu chuẩn cụ thể về tư cách, đạo đức người cách mạng
trong Đường kách mệnh để tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng, chính trị, đạo đức,
tác phong, ý thức làm việc của bản thân mình. Quán triệt và thực hiện Chỉ thị
05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Từ đó, thực hiện thắng lợi Nghị quyết TW4
(khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống biểu hiện suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ góp phần vào công cuộc đổi mới, hoàn thành sứ mệnh người cách mạng
như yêu cầu của Bác.
Hai là, trong nhà trường mọi cán bộ, đảng viên, nhân
viên và học viên cần thấm nhuần tư tưởng đạo đức cách mạng của Người; học tập,
vận dụng sáng tạo tư tưởng của Bác về tư
cách người cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Là người giảng viên giảng
dạy lý luận chính trị trong điều kiện bùng nổ thông tin – cách mạng 4.0, cùng
với đó là sự chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng nước
ta, bản thân tôi luôn nỗ lực học tập để nâng cao chuyên môn, trình độ lý luận
và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu công việc; đấu tranh bảo vệ, vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh
đó, mỗi chúng ta cần phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình của người đảng
viên để sửa đổi bản thân đồng thời giúp đồng chí mình tiến bộ, để xây dựng nhà
trường là một tập thể trong sạch, vững mạnh./.
SỰ SỤP ĐỔ CỦA CHÍNH QUYỀN XÔ VIẾT VÀ BÀI HỌC VỀ
VẤN ĐỀ BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG VÔ SẢN
THS. HOÀNG ĐỨC HỢP
Phó Trưởng khoa lý luận
Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
Cách đây 100 năm, ngày 07 tháng 11 năm 1917 (tức vào ngày 25/10 Nga) cuộc
Cách mạng Tháng Mười do V.I.Lênin và Đảng Bôn-sê-vích Nga lãnh đạo đã thành
công, chính quyền Xô Viết – nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử
nhân loại ra đời, đây là một sự kiện vĩ đại có tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu rộng, làm rung
chuyển, đảo lộn trật tự thế giới. Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Mười đã “mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân
loại, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế
giới”.
Thành quả của
Cách mạng Tháng Mười Nga, với tính chất là cuộc cách mạng vô sản, cho ra đời
nhà nước XHCN đầu tiên trong lịch sử, một nhà nước của nhân dân, chính quyền đã từ trong
tay thiểu số người bóc lột chuyển sang tay đa số người lao động, nhân dân bị áp
bức, nô dịch vươn lên làm chủ xã hội. Khác với tất cả các cuộc cách mạng xã hội
từng diễn ra trong lịch sử loài người chỉ nhằm thay thế phương thức bóc lột này
bằng phương thức bóc lột khác. Cách mạng Tháng Mười chứa đựng nội dung vô cùng
sâu sắc nhằm thủ tiêu mọi hình thức bóc lột giai cấp và áp bức dân tộc, mở
đường thắng lợi cho độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên toàn thế
giới.
Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là động lực mạnh mẽ cổ vũ các dân
tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột của giai cấp
phong kiến, tư sản, tự cứu lấy mình và giải phóng mình mà còn là xung lực mạnh
mẽ, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, cũng như phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế phát triển, lan tỏa nhanh và mạnh sang châu Á, châu Phi và
khu vực Mỹ Latinh, làm cho giai cấp thống trị run sợ, buộc phải lùi bước, xuống
thang và thay đổi chính sách cho phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Sau hơn bảy
mươi năm tồn tại, phát triển không ngừng, vào cuối những năm 80 của thế kỷ
trước, Liên Xô đã trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới. Với sức mạnh to
lớn về chính trị, quân sự, khoa học công nghệ và kinh tế, Liên Xô đủ sức đương
đầu với hệ thống chủ nghĩa tư bản trên thế giới và có khả năng ngăn chặn mọi âm
mưu, hoạt động hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ hòa bình thế giới,
đồng thời sẵn sàng giúp đỡ các nước thuộc địa, phụ thuộc đấu tranh giành độc
lập và xây dựng CNXH.
Tuy nhiên, cuối những năm 80 đầu
những năm 90 của thế kỷ XX, chính quyền Liên bang Xô Viết đã lâm vào khủng
hoảng, dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vào
cuối năm 1991. Đây là một sự kiện đặc biệt quan trọng làm chấn động và thay đổi
căn bản cục diện chính trị thế giới, tuy sự sụp đổ của chính quyền Xô Viết chỉ
là sự thất bại tạm thời của mô hình CNXH hiện thực, sự thất bại của đường lối
lãnh đạo sai lầm của Đảng Cộng sản Liên xô không làm thay đổi giá trị đúng đắn,
khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng nó là một tổn thất hết sức to lớn đối
với những người cộng sản trong quá trình hiện thực hóa học thuyết Mác-Lênin. Sự
tan rã của chính quyền Xô Viết cũng để lại cho
các nước XHCN trong đó có Việt Nam những bài học xương máu và sâu sắc trong quá
trình bảo vệ thành quả cách mạng và thực hiện mục tiêu CNXH.
Tại sao chính
quyền Xô Viết lại không bảo vệ được thành quả cách mạng vĩ đại của mình? Tìm hiểu nguyên nhân
chính dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Xô Viết, để rút ra bài học cho quá
trình phát triển của các nước XHCN còn lại có thể nói là vấn đề có tính sống
còn trong quá trình hiện thực hóa chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nhìn lại sự sụp đổ của chính
quyền Xô Viết, có thể tìm thấy được nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân khách
quan, như sự chống phá quyết liệt, xảo quyệt của chủ nghĩa đế quốc thông qua
chiến lược “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu”, sự tác động của mặt trái nền
kinh tế thị trường,… nhưng nguyên nhân chủ quan, cũng là nguyên nhân chính và
quyết định nhất, đó chính là do những sai lầm
nghiêm trọng về chiến lược của Đảng Cộng sản Liên Xô, mà trước hết là công tác
xây dựng Đảng, đặc biệt là công tác cán bộ. Ngay từ những năm 80 của thế kỷ XX,
ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô đã không tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh
loại bỏ những phần tử cơ hội, thực dụng trong đội ngũ cán bộ chủ chốt, không
coi trọng công tác xây dựng Đảng và lựa chọn phát triển đội ngũ đảng viên, dẫn đến
sự tha hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận không
nhỏ đảng viên của Đảng, mà trực tiếp và chủ yếu là Bộ Chính trị, BCH Trung ương
đã tự đánh mất mình làm cho Đảng suy yếu, không đủ sức lãnh đạo chính quyền
nhân dân, giữ gìn thành quả cách mạnh vô sản, thực hiện mục tiêu CNXH.
Trong sinh hoạt đảng thì vi phạm
nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, đây là điểm khởi thuỷ, nguồn gốc của
mọi biểu hiện khác về sự thoái hoá của Đảng Cộng sản Liên Xô, cũng do thiếu dân
chủ trong sinh hoạt đảng mà Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm trong việc
đánh giá cán bộ, đào tạo cán bộ, tuyển chọn và bố trí, sử dụng cán bộ vào vị
trí chủ chốt trong Đảng, trong Nhà nước. Hậu quả của nó là đã để lọt vào
trong Đảng những phần tử cơ hội chủ nghĩa, chưa đủ độ chín muồi về mặt chính
trị, chưa thực sự giác ngộ về giai cấp, về lý tưởng cộng sản. Khi kết nạp mọi
đảng viên đều tuyên thệ về sự giác ngộ lý tưởng cộng sản của mình, hứa hẹn một
lòng một dạ phấn đấu vì lợi ích của giai cấp, của những người lao động,
nguyện trung thành với lý tưởng cộng sản... Nhưng khi đã vào Đảng rồi thì họ
thiếu sự phấn đấu rèn luyện trong hoạt động thực tiễn, họ dần dần xa rời những
lời tuyên thệ, hứa hẹn của mình, dẫn đến sự tha hóa, phản bội lại lý tưởng của
Đảng. Điển hình cho sai lầm đó chính là M.
Goóc-ba-chốp (Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1985-1991), với tư cách là
người đứng đầu Đảng Cộng sản Liên Xô, ông ta cùng cộng sự đã nhân danh “cải tổ”
để thực hiện sự thay đổi lớn về nhân sự trong đội ngũ cán bộ, dùng mọi thủ đoạn
loại bỏ những người cộng sản kiên trung ra khỏi bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước và quân đội, thay thế họ là những phần tử “cấp tiến”, các phần tử cơ hội,
thực dụng về kinh tế và chính trị, phản bội lý tưởng XHCN và lợi ích dân tộc,
phản bội tư tưởng của V.I.Lênin về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc cố tình
hiểu sai và làm sai chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình “cải tổ” đã khiến Đảng Cộng sản Liên
Xô đi chệch khỏi những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội dẫn tới sự
sụp đổ và tan rã của Liên bang Xô Viết - thành quả của Cách mạng Tháng Mười -
thành trì của CNXH hiện thực.
Từ sự sụp đổ và
tan rã của chính quyền Xô Viết, chúng ta có thể rút ra được nhiều bài học bổ
ích, như: phải tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; nâng cao nhận thức, trách nhiệm và bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng
viên và nhân dân đối với phòng, chống “diễn biến hòa bình” và “cách mạng màu”,
coi đó là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và mang tính cấp thiết trong bảo vệ Tổ quốc
XHCN; coi trọng công tác xây dựng Đảng và bộ máy chính quyền trong sạch vững
mạnh, đoàn kết thống nhất cao, xây dựng và thực hiện tốt chiến lược công tác
cán bộ, nhất là lựa chọn và bố trí những cán bộ chủ chốt, bảo đảm thực sự vững
vàng về bản lĩnh chính trị, tin cậy và kiên định về lý tưởng; xây dựng, củng cố
mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nắm chắc quần chúng và động viên được sức
mạnh của nhân dân; phải xây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển vững chắc,
nâng cao đời sống nhân dân, giữ được độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc
tế, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước đối với
nền kinh tế; giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với các lực lượng vũ
trang và toàn xã hội.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là
cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo để thực hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản, đây thời kỳ cải biến xã hội lâu dài, khó khăn, phức tạp,
mà nhân tố quyết định sự thắng lợi của cách mạng chính là Đảng Cộng sản. Tuy
nhiên, khi phân tích kỹ những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Xô
Viết, chúng ta thấy rằng, nguyên nhân chủ yếu vẫn là vấn đề xây dựng Đảng,
trong đó có công tác cán bộ. Trước những thách
thức và biến đổi to lớn của thế giới ngày nay, việc nhận thức về vai trò, tầm
quan trọng và ý nghĩa quyết định của công tác xây dựng Đảng đối với sự tồn vong
của chế độ XHCN có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Các nước XHCN còn lại, trong
đó có Việt Nam, muốn bảo vệ được thành quả cách mạng, hoàn thành mục tiêu XHCN,
trước hết cần phải coi trọng công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là công tác cán
bộ, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của
Đảng.
Ở Việt Nam “từ khi thực hiện đường lối
đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt
được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không
ngừng được nâng cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai
trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng
cố; đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến
bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm
chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin
tưởng. Thành tựu hơn 30 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên”.
Tuy nhiên, “bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng
vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo
dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục”;
“Công tác giáo dục chính trị tư tưởng,
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp ứng yêu cầu”; “Tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa
bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ
trong bộ máy nhà nước”; nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận
thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn
"tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; việc đấu tranh, phản bác
những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản
động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả
chưa cao. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước
ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu
kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc”.
Những
hạn chế, khuyết điểm nêu trên nếu không kịp thời sửa chữa, sẽ làm giảm sút vai
trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân
dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế
độ XHCN.
Từ bài học về sự sai lầm trong đường lối lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Liên Xô và thực tiễn công tác xây dựng Đảng ở Việt Nam hiện nay, Đảng
ta khẳng định, cần phải “nhận thức sâu
sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp
để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong nội bộ. Kiên quyết khắc phục những yếu kém
trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương
mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân,
thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân dân đối
với Đảng”. Đây
được coi là nhiệm vụ then chốt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đồng
thời là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng xã hội chủ nghĩa vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh./.
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐANG ĐẶT RA
THS. TRẦN THỊ
THU
Giảng viên khoa lý luận Mác-Lênin, Tư
tưởng HCM
Quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một
trong những vấn đề lý luận đặc biệt căn bản hiện nay. Nghiên cứu lý
luận này để làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay là điều có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Tư tưởng về thời kỳ quá độ (TKQĐ) đã được các nhà kinh điển C.Mác-
Ph.Ăngghen nhiều lần nhắc tới trong các tác phẩm của mình. Tuy nhiên, những lý
luận của các ông mới chỉ nhắc đến những vấn đề chung nhất về TKQĐ còn về mặt
nội dung và nhiệm vụ cụ thể như thế nào thì chưa đề cập đến. Lênin - người học
trò xuất sắc, là nhà tư tưởng vĩ đại đã kế thừa và bổ sung lý luận về TKQĐ cho
phù hợp với điều kiện cách mạng mới.
Trước hết Lênin khẳng định tính tất yếu khách quan của TKQĐ lên chủ nghĩa
cộng sản (CNCS) và giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chỉ ra bản chất
cốt lõi của thời kỳ này. Ông viết: “Về lý luận, không thể nghi ngờ được rằng
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định.
Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của hai kết
cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một
thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản
đang phát sinh, hay nói cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng
chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn non
yếu”.
Cùng với việc tiếp tục khẳng định
hình thức quá độ trực tiếp theo con đường phát triển tuần tự từ CNTB phát triển
cao sang CNCS mà Mác đã chỉ ra, Lênin còn phát triển lý luận về TKQĐ bằng cách
đưa ra hai hình thức quá độ mới. Khi phân tích CNTB trong giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa - giai đoạn phát triển độc quyền của nó, với việc phát hiện ra quy luật
phát triển không đều về kinh tế và chính trị của CNTB, Lênin đã đi đến kết luận
về khả năng thắng lợi của cách mạng XHCN
ở một số nước TBCN, thậm chí đó có thể là nước TBCN kém phát triển nhất mà trước đó Mác chỉ
đề cập khả năng này ở các nước tư bản chủ nghĩa ở trình độ phát triển cao lên
CSCN.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, Lênin đã biến CNXH từ lý luận trở
thành hiện thực, nhà
nước Xô Viết được thành lập đây là nhà
nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới, nhà nước của nhân dân lao
động, đã chứng minh cho luận điểm này của Lênin là hoàn toàn đúng đắn.
Đây chính là sự phát triển, vận dụng sáng tạo của Lênin trong quá trình xây
dựng CNXH ở nước Nga Xô Viết.
Lý luận về TKQĐ lên CNXH bỏ qua
giai đoạn TBCN còn được Lênin bổ sung và phân tích sâu sắc hơn về những điều
kiện để một nước kém phát triển có thể quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN
bao gồm:
Điều kiện đầu tiên theo Lênin có
vai trò quan trọng đó chính là chúng ta phải thực hiện một cuộc cách mạng để
thiết lập chính quyền công nông, thông qua chính quyền ấy mà tiến lên đuổi kịp
các dân tộc khác.
Lênin chỉ ra để có thể quá độ lên CNXH bỏ qua
giai đoạn TBCN thì cần có sự liên minh giữa giai cấp vô sản đang nắm chính
quyền với đại đa số nông dân. Ông khẳng định khi chưa có sự giúp đỡ kịp thời
của cách mạng vô sản thế giới thì sự liên minh giữa công nhân và nông dân càng
có ý nghĩa quan trọng sống còn.
Điều kiện cuối cùng mang tính khách quan có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đó là có sự ủng hộ kịp thời của cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở một nước hay một số nước tiên tiến.
Đây chính là những điều kiện hết
sức cần thiết, không thể thiếu mà Lênin đã chỉ ra trên cơ sở kế thừa tư tưởng
về TKQĐ của chủ nghĩa Mác và qua thực tiễn xây dựng CNXH ở nước Nga Xô Viết,
đây là bài học quý báu cho các nước đi sau xây dựng CNXH từ trình độ kém phát
triển trong đó có Việt Nam.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo
quan điểm của Lênin, ngay khi ra đời, Đảng ta đã xác định con đường phát triển
của dân tộc là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN và qua các kỳ Đại hội của
Đảng, chúng ta tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn lý luận về TKQĐ lên CNXH và
con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Tuy
nhiên, khi đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới, khi chủ
nghĩa xã hội thế giới vẫn đang ở thời kỳ thoái trào; quá trình toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng thấm sâu vào đời sống mọi
quốc gia thì vấn đề làm rõ, bổ sung thêm những lý luận của Lênin về TKQĐ
lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN là rất cần thiết đối với chúng ta, nhằm cung cấp
thêm những cơ sở lý luận và khoa học đúng đắn, củng cố niềm tin của nhân dân
vào con đường xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
Từ khi
ra đời cho đến nay dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa dân tộc Việt Nam giành được
những thắng lợi vẻ vang, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong giai đoạn hiện
nay, Đảng ta rất chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đây được coi là nhiệm vụ
thường xuyên và lâu dài, có như vậy Đảng mới giữ vững được vai trò lãnh đạo của
mình. Những thành tựu trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua đã khẳng định vai trò
quan trọng của Đảng. Đảng ta luôn biết phát huy sức mạnh của khối liên minh
công, nông, trí thức. Đây chính là động lực chủ yếu để phát triển đất nước là
nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng chính là nhân
tố quan trọng nhất đảm bảo sự thành công của thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua
CNTB.
Như vậy so với hai điều kiện đầu tiên mà Lênin
chỉ ra thì chúng ta luôn giữ vững, củng cố và phát huy được sức mạnh. Vậy điều
kiện cuối cùng là: có sự ủng hộ kịp thời của cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước hay một số nước tiên tiến hiện nay như thế nào? Đây
là vấn đề đặt ra đối với Đảng trong quá trình lãnh đạo đất nước quá độ lên
CNXH.
Cuối
thế kỷ XX, thế giới có nhiều biến đổi so với giai đoạn trước, sau sự sụp đổ của
mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, Việt Nam đã mất đi một chỗ dựa quan trọng về
vật chất và tinh thần, bước quá độ lên CNXH ở Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Các thế lực thù địch lợi dụng luôn tìm cách phủ nhận công cuộc xây dựng CNXH ở
nước ta. Một bộ phận nhân dân trong đó có một số đảng viên tỏ ra hoài nghi về
con đường mà Đảng ta đã lựa chọn. Chính vì vậy trong Nghị quyết Trung ương 4
khóa XII đã chỉ ra một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị
đó là: “không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ
họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái”. Vấn
đề này đặt ra cho Đảng một nhiệm vụ hết sức nặng nề, làm thế nào để có thể khắc
phục được tình trạng này? Dưới sự lãnh đạo tài tình của
Đảng, chúng ta đã biến những khó khăn đó thành những động lực để tiếp tục tiến
lên xây dựng CNXH, không còn sự hỗ trợ từ các nước XHCN anh em chúng ta đã phát
huy sức mạnh từ các yếu tố nội lực đồng thời chủ động mở rộng giao lưu với tất
cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, phương châm và
định hướng lớn của hoạt động đối ngoại mà Đảng ta đã khẳng định là: “đa dạng
hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế”.
Với phương châm này, chúng ta đã tranh thủ việc
thu hút đầu tư nước ngoài kèm theo đó là chuyển giao công nghệ, mở rộng thị
trường cho phép nước ta có thể tận dụng huy động các nguồn lực từ bên ngoài để
xây dựng phát triển đất nước, củng cố niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo
của Đảng.
Với sự
vận dụng sáng tạo quan điểm của Lênin về TKQĐ vào tình hình hiện nay của Đảng
ta, đã khẳng định sự lựa chọn con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một
sự lựa chọn duy nhất đúng, là phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của toàn thể
dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã tiến những bước gần hơn tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh./.
TƯ DUY CHÍNH TRỊ CỦA LÊNIN
VỀ QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH
TRỊ
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG 30
NĂM ĐỔI MỚI
TS. VŨ NGỌC HOÀNG
Phó Giám đốc
Nhìn lại 30 năm đổi mới, mối quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng được xác định như là mối
quan hệ cơ bản và quan trọng hàng đầu trong quá trình đổi mới đất nước, là nội
dung quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và
Nhà nước. Hơn nữa, nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này còn là khâu
đột phá trong lý luận của Đảng về công cuộc đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Ngay trong chủ trương tổng quát này
chúng ta đã thấy biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Nghiên cứu những bài học
kinh nghiệm đã qua giúp cho chúng ta có thêm cơ sở để ra những quyết định sáng
suốt thực hiện định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường.
Đối với Lênin, trong điều
kiện giai cấp vô sản giành được chính quyền nhiệm vụ phát triển kinh tế là
nhiệm vụ rất quan trọng, nhiệm vụ của chính trị chính là nhiệm vụ kinh tế. Lênin cho rằng, nhiệm
vụ xây dựng (kinh tế - người viết) là nhiệm vụ chính trị của giai cấp vô sản. Khi tập trung vào nhiệm
vụ kinh tế, Lênin cho rằng bản thân nhiệm vụ kinh tế đồng thời là nhiệm vụ
chính trị: “Cách mạng về kinh tế sẽ kích thích tất cả các dân tộc hướng về chủ
nghĩa xã hội, nhưng đồng thời những cuộc bùng nổ - chống lại nhà nước xã hội
chủ nghĩa - cũng như các cuộc chiến tranh vẫn có thể xảy ra. Nhất định chính
trị sẽ thích ứng với kinh tế nhưng không phải ngay lập tức, không phải không
vấp váp, không phải giản đơn, không phải trực tiếp”. Sau thắng lợi của cách
mạng Tháng Mười, Lênin đã chỉ đạo xây dựng nền kinh tế theo mô hình sở hữu công
cộng và kế hoạch tập trung. Thực trạng suy sụp kinh tế của nước Nga Xô Viết sau
nội chiến quyết định cho việc ra đời chính sách kinh tế mới (NEP) do Lênin khởi
thảo. NEP đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong tư duy chính trị của Lênin khi
thực hiện các mục tiêu kinh tế: chính trị phải tính đến tất yếu về kinh tế
nhưng nhiệm vụ phát triển kinh tế phải là nhiệm vụ ưu tiên hơn so với nhiệm vụ
chính trị. Người cho rằng: “chính thực chất của sự quá độ từ xã hội tư bản
chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa lại là ở chỗ các nhiệm vụ chính trị giữ
địa vị phụ thuộc so với nhiệm vụ kinh tế” Lênin cho
rằng: nhu cầu phát triển khách quan của kinh tế phải được chính trị cụ thể
hoá ở các chính sách phát triển kinh tế, ở phương thức hoạt động của các bộ
phận trong hệ thống chính trị thích ứng với nhu cầu của phát triển kinh tế. Do
vậy, “bất cứ một vấn đề chính trị nào cũng có thể là một vấn đề tổ chức, và
ngược lại.... Không thể tách rời những vấn đề tổ chức khỏi những vấn đề chính
trị được. Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại”. Ưu tiên cho chính trị là
giành quyền ưu tiên cho việc tạo địa bàn đầy đủ nhất cho kinh tế phát triển. Lênin cho
rằng: “Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Lập luận
một cách khác đi tức là quên mất những điều sơ đẳng của chủ nghĩa Mác”, và
nhấn mạnh rằng: chính trị không thể không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế.
Lênin đã cho rằng trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, kinh tế là cái
giữ vai trò quyết định nhưng không thể không tính đến quyền ưu tiên cho chính
trị. Do vậy, cần phải có cái nhìn uyển chuyển giữa kinh tế và chính trị. Không
phải bất cứ ở đâu, bất cứ khi nào, khi giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị cũng đều bắt đầu từ kinh tế. Điều cốt lõi nhất của chính trị lại
chính là lợi ích kinh tế. Do vậy, khi ưu tiên cho chính trị chúng ta đã
giành quyền ưu tiên trước hết cho vấn đề lợi ích kinh tế trước một loạt những
vấn đề khác của kinh tế, ưu tiên cho vấn đề căn bản, quyết định cho sự phát
triển của kinh tế. Chúng ta có thể suy rộng ra là: Ưu tiên cho chính trị
trong điều kiện giai cấp vô sản giành quyền lãnh đạo chính trị chính là giành
quyền ưu tiên cho vấn đề lợi ích kinh tế của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, ưu tiên cho sự phát triển kinh tế của những người lao động. Khi gắn luận
điểm này vào trong thực tiễn, quyền ưu tiên cho chính trị được hiểu là nếu cần
phải giải quyết một vấn đề đã chín muồi trong chính trị thì việc giải quyết vấn
đề chính trị đó phải có lợi về kinh tế, phải củng cố cơ sở kinh tế của xã hội.
Điều này cũng có nghĩa là khi tiến hành đổi mới chính trị thì những đổi mới
chính trị đó phải làm lợi cho sự phát triển của kinh tế do nhân dân lao động và
cho giai cấp vô sản. Lưu ý rằng quyền ưu tiên cho chính trị đòi hỏi trong những
hoàn cảnh đặc biệt, một giai đoạn đặc thù nào đó nếu phải hy sinh lợi ích kinh
tế để thực hiện quyền ưu tiên của chính trị thì đó là quyết định hy sinh cái bộ
phận, trước mắt cho những tiền đề căn bản, lâu dài cho sự phát triển của kinh
tế. Điều này cho thấy, Lênin không quan niệm phải phát triển kinh tế bằng
mọi giá, bất chấp chính trị, không tính đến chính trị. Ưu tiên cho chính
trị còn được hiểu với nghĩa là với những thành tựu của phát triển của kinh tế
phải hướng đến việc bảo vệ và phát triển về chính trị. Một giai cấp muốn
lãnh đạo và phát triển được kinh tế, đạt được lợi ích của mình thì không được
sai lầm về chính trị. Hơn thế nữa, một giai cấp muốn lãnh đạo thành công
trong quá trình phát triển kinh tế thì giai cấp đó còn phải đảm bảo được lợi
ích của giai cấp khác, huy động được giai cấp khác cùng bảo vệ chế độ chính trị
do mình làm chủ. Tuy nhiên, trong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính
trị Lênin tiếp tục phát triển quan niệm của Ănghen khi ông cho rằng kinh tế
không tự nó khắc phục được những khó khăn do chính kinh tế tạo ra, cũng như đòi
hỏi chính trị phải có sự thích ứng ngay với kinh tế. Lênin đã viết: “Nhất định
chính trị sẽ thích ứng với kinh tế những không phải ngay lập tức và không phải
không vấp váp, không phải giản đơn, không phải trực tiếp”.
Luận điểm này cho ta thấy rõ hơn tư duy chính trị của Lênin: có thể trong điều
kiện nào đấy giữa kinh tế và chính trị
chưa có sự phù hợp ngay lập tức với nhau thì cần phải lấy mục tiêu phát
triển kinh tế, lấy lợi ích kinh tế của đông đảo nhân dân lao động làm thước đo
và làm cơ sở để hoàn thiện và đổi mới chinh trị.
Trong văn
kiện qua các kỳ đại hội, những bài học kinh nghiệm của Lênin về mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị đã được Đảng ta cụ thể hoá thành những chủ trương cụ
thể như sau:
- Tại hội nghị lần 6 Ban Chấp
hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng
ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức
và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải
cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ
không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì
dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới”.
- Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc
lần thứ VII: “Phải tập trung sức làm tốt
đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc
làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong
lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt
quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội”.
- Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại
hội VIII của Đảng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm, trong đó nổi lên bài
học: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị”. Đại hội IX tiếp tục
khẳng định những kinh nghiệm và nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới sâu rộng, đồng bộ
về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước”.
- Tổng kết
20 năm đổi mới (1986-2006), Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm,
trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt
và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần xã hội”. Và
đến Đại hội XI, sự nghiệp đổi mới tiếp tục được khẳng định, Đảng ta chỉ rõ: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới
kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong
xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”.
- Kế thừa và phát huy những thành
tựu, bài học kinh nghiệm của 30 năm đổi mới, nhất là 5 năm gần đây, Đại hội XII
của Đảng xác định: tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn; trong đó
có quan hệ “giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị ”. Điều này được thể hiện ở các nhiệm vụ: “Tiếp tục hoàn
thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”;
“Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân;
không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”;
“Tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”; “Xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh,…”. Đó chính là tiếp tục đổi mới đồng bộ thể chế chính
trị và thể chế kinh tế.
Như vậy, theo quan điểm của
V.I.Lênin, trong mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị - cơ sở hạ tầng với
kiến trúc thượng tầng, thì kinh tế quyết định chính trị và chính trị tác động
trở lại kinh tế. Vận dụng mối quan hệ đó trong thời kỳ đổi mới ở nước ta, Đảng
ta khẳng định: Một là, duy trì và
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; Hai là, đổi mới kinh tế là trọng tâm, tùy theo thành quả và yêu cầu
của đổi mới mà từng bước đổi mới chính trị; Ba
là, đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước. Sự vận dụng đúng đắn này nhằm đảm bảo mục tiêu xây dựng nền
kinh tế chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn
hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh, hạnh phúc.
Sự vận dụng sáng
tạo những bài học kinh nghiệm của V.I.Lênin đã góp phần quan trọng vào thắng
lợi của công cuộc đổi mới đất nước. Sau 30 năm, đất nước ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển
có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng,
an ninh được tăng cường. Văn hoá - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước
và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát
huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị
được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững.
Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của
Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao./.
TRIỂN KHAI HIỆU QUẢ PHẦN HỌC “NHỮNG VẤN ĐỀ
CƠ BẢN VỀ
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH” CHƯƠNG TRÌNH
TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
CHỈNH SỬA, BỔ SUNG
THS. TRẦN THỊ KIM THƯ
Giảng
viên khoa Lý luận Mác-Lênin, TT Hồ Chí Minh
Đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ nói chung
và trình độ lý luận chính trị nói riêng luôn là nội dung quan trọng trong công
tác của Đảng. Trong các giai đoạn cách mạng nước ta, Đảng luôn quan tâm tới
nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên các cấp.
Tuy nhiên, mỗi một giai đoạn lịch sử khác nhau, tình hình kinh tế - xã hội,
điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và chất lượng đội ngũ cán bộ khác nhau, đòi
hỏi nội dung chương trình, thời gian và hình thức đào tạo phải phù hợp. Trước
thực tế, chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp được nâng cao, sự phát triển mạnh
của công nghệ truyền thông, đặc biệt là trước những âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến
hoà bình” của các thế lực thù địch và chủ nghĩa đế quốc hiện nay đặt ra yêu cầu
việc đào tạo lý luận chính trị đối với đội ngũ cán bộ các cấp cần phải có đổi
mới kịp thời.
Xuất phát từ thực tế đó, chương trình Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính đã được Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
chỉnh sửa, bổ sung theo hướng giảm thời gian lên lớp của các phần học, tăng
thời gian thảo luận và đặc biệt đã dành gần 30% đến 50% số tiết giảng cho việc
học viên tự nghiên cứu cho từng môn học. Phải khẳng định đây là hướng đổi mới
phù hợp với điều kiện xã hội và đối tượng học viên là hiện nay. Việc quy định
rõ thời gian học viên tự nghiên cứu và tăng cường thảo luận trên lớp góp phần
phát huy tính chủ động và huy động hiểu biết, kinh nghiệm của người học vào
trong quá trình đào tạo, bảo đảm gắn lý luận với thực tiễn. Đồng thời, tạo cơ
sở cho việc nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên cả về trình độ chuyên
môn và kỹ năng lên lớp.
Qua thực tiễn triển khai thực hiện chương trình Trung
cấp lý luận chính trị - hành chính chỉnh sửa, bổ sung tại trường Chính trị
Trường Chinh. Bên cạnh những kết quả đạt được, còn bộc lộ những hạn chế cần
nhận thức và giải quyết nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của chương trình.
Đối với phần học: “Những vấn đề cơ bản về Chủ nghĩa Mác - Lênin” quá trình
triển khai soạn giảng và giảng dạy có những khó khăn sau:
Trước hết,
việc quy định cụ thể thời gian tự học, tự nghiên cứu của học viên với số tiết
nhiều nhưng chưa có hướng dẫn về cách thức tổ chức tự học, tự nghiên cứu cụ
thể, đặc biệt là quy định về kiểm tra, đánh giá kết quả tự học, tự nghiên cứu trong
bộ quy chế đào tạo đã gây ra sự lúng túng trong việc triển khai nội dung này.
Làm cho việc tự học, tự nghiên cứu của học viên hiệu quả thực hiện thấp.
Thứ hai,
thời gian lên lớp của giảng viên được rút ngắn, chỉ còn một nửa thời gian,
những nội dung giáo trình mới không thay đổi so với chương trình chưa chỉnh
sửa, bổ sung. Bên cạnh đó, việc nhập 3 môn học Triết học Mác - Lênin, Kinh tế
chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học và một số bài của môn Kinh tế
thời kỳ quá độ vào phần học chung như hiện nay tạo ra khó khăn trong việc tổ
chức thi hết phần học với chủ trương đổi mới hình thức thi thi trắc nghiệm hoặc
thi vấn đáp.
Ba là,
để thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng áp dụng phương
pháp giảng dạy “tích cực” đòi hỏi mỗi giảng viên phải có kế hoạch giảng dạy hay
gọi là phương án lên lớp cụ thể đối với từng lớp cụ thể. Thực tế, việc sử dụng
phương pháp của giảng viên trong quá trình giảng dạy môn học này còn thụ động,
chưa thực sự khoa học. Giảng viên chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp thuyết trình
và hiệu quả sử dụng phương pháp “tích cực” còn thấp.
Qua thực tiễn giảng dạy, theo chúng tôi để nâng cao
hiệu quả triển khai chương trình và chất lượng giảng dạy phần học này cần phải
tập trung thực hiện một số nội dung sau:
Một là,
trên cơ sở bộ quy chế của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đối với
chương trình này, nhà trường cần xây dựng quy định về tổ chức kiểm tra, đánh
giá kết quả tự học, tự nghiên cứu của học viên. Tổ chức kiểm tra, đánh giá phải
được thực hiện đồng bộ ở các môn học; kết quả đánh giá phải là cơ sở để các
khoa chuyên môn và Ban Giám đốc duyệt điều kiện thi hết môn học đối với học
viên; Ban Giám đốc và bộ phận thanh tra thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm
tra việc đánh giá kết quả tự học, tự nghiên cứu của học viên bảo đảm hoạt động
này đi vào nền nếp và thực chất.
Hai là,
xây dựng giáo án mẫu của khoa đối với từng bài trong môn học là cơ sở để các
giảng viên tổ chức soạn giảng và giảng dạy. Giáo án mẫu phải xác định cụ thể
những nội dung trọng tâm được giảng dạy trên lớp, những nội dung học viên tự
nghiên cứu và viết thu hoạch. Đối với phần học viên tự nghiên cứu, giảng viên
phải thực hiện hướng dẫn nội dung, phương thức và yêu cầu của bài viết thu
hoạch. Đây là nội dung chưa được thực hiện, dẫn tới sự lúng túng hoặc không
thực hiện việc tự học, tự nghiên cứu của học viên.
Ba là,
mỗi giảng viên trước khi lên lớp, trên cơ sở giáo án mẫu, phải có kế hoạch lên
lớp cụ thể cho từng lớp học. Điều này xuất phát từ sự đa dạng của từng lớp, ở
đây cần xác định rõ hai nhóm đối tượng: Lớp dành cho cán bộ cơ sở (xã, phường,
thị trấn); lớp dành đối tượng cán bộ sở, ban, ngành cấp tỉnh. Trước khi lên
lớp, mỗi giảng viên cần được cung cấp danh sách lớp có nội dung về đơn vị công
tác, chuyên môn đào tạo. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch, phương án lên lớp
một cách hiệu quả, đặc biệt là việc lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp.
Bốn là,
thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng uỷ nhà trường về nâng cao chất lượng
giảng dạy thông qua đổi mới hình thức thi từ tổ chức thi viết là phổ biến sang
lựa chọn một số môn học tổ chức thi trắc nghiệm và thi vấn đáp. Qua thực tiễn
tổ chức thi vấn đáp môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đã cho thấy, ý thức học tập và ôn
tập của học viên được nâng cao, đồng thời tạo điều kiện để giảng viên tổ chức hiệu
quả giờ thảo luận trên lớp, khắc phục sức ỳ của học viên trong các giờ thảo
luận.
Nâng cao chất lượng giảng dạy phụ thuộc nhiều yếu tố,
triển khai nội dung chương trình của từng môn học, phần học như thế nào có ý
nghĩa quan trọng. Qua thực tiễn triển khai môn học “Những vấn đề cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin” của khoa trong hai năm học, chúng tôi rút ra một số nhận
thức có thể coi là “kinh nghiệm” để tổ chức triển khai hiệu quả môn học này,
góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy theo tinh thần Nghị quyết của Đảng uỷ
nhà trường./.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SOẠN VÀ GIẢNG DẠY
BÀI NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC HỘI CỰU CHIẾN BINH VÀ VẬN ĐỘNG
CỰU CHIẾN BINH Ở CƠ SỞ
CN. CÙ THỊ VÂN
Giảng viên
khoa Dân vận
Trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải
phóng dân tộc, cựu chiến binh là lực lượng đông đảo và có vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội. Thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội cho thấy hoạt động của các cựu chiến
binh góp phần tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã
hội chủ nghĩa; đấu tranh chống mọi âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực
thù địch; thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở, đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tệ nạn xã hội.
Với tầm quan trọng và vai trò của Hội cựu chiến binh, công tác vận động
Cựu chiến binh là một trong những nội dung quan trong của công tác dân vận của Đảng.
Để nâng cao nhận thức và hiệu quả lãnh đạo, quản lý đối với đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp cơ sở trong việc vận động cựu chiến binh, chương trình Trung
cấp lý luận chính trị - hành chính có một bài trong môn học Nghiệp vụ Mặt trận
Tổ quốc và đoàn thể nhân dân ở cơ sở đó là bài “Nghiệp vụ công tác Hội Cựu chiến binh
và vận động cựu chiến binh ở cơ sở”.
Mục đích của bài nhằm cung cấp cho học viên những vấn đề lý luận chung để
có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của Hội cựu chiến binh và công tác vận
động cựu chiến binh. Trên cơ sở đó giúp cán bộ lãnh đạo ở cơ sở nâng cao chất
lượng lãnh đạo, quản lý công tác cựu chiến binh và vận động cựu chiến binh ở
địa phương.
Sau hơn hai năm tổ chức giảng dạy và sau khi đã có chỉnh sửa và bổ sung
chương trình năm 2017 có thể thấy việc soạn giảng và thực hiện giảng dạy gặp
những vấn đề sau:
Thứ
nhất: Với tên bài là “Nghiệp vụ công tác Hội Cựu chiến binh và vận động cựu
chiến binh ở cơ sở” được thực hiện giảng dạy trong thời gian 4 tiết,
cho thấy nội dung giảng dạy trong giáo trình quá lớn so với thời gian quy định
giảng dạy trên lớp. Do đó, công tác soạn giảng của giảng viên đối mặt với vấn
đề “dàn trải” về nội dung trong giáo án. Quá trình giảng dạy, giảng viên “ôm
đồm” phải chạy theo nội dung của giáo trình, dẫn tới chất lượng giảng dạy không
cao, người học chịu áp lực lớn về kiến thức.
Thứ
hai: Đối tượng người học của chương trình là rất đa dạng. Không chỉ có đối
tượng học viên chức danh là cán bộ lãnh đạo, quản lý, dự nguồn cấp cơ sở (cấp
xã) mà còn có đối tượng người học là cán bộ, lãnh đạo, quản lý và dự nguồn
thuộc các đơn vị phòng, ban cấp huyện, cấp tỉnh. Nội dung của bài gồm quá nhiều
nội dung về nghiệp vụ của Hội cựu chiến bình là không phù hợp. Chúng ta phải
lưu ý, đây là chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính, mục tiêu
là nâng cao nhận thức lý luận là chính chứ không phải là công tác nghiệp vụ của
hội.
Theo chúng tôi, mục tiêu của chương trình và bài giảng là cung cấp đối
với học viên những vấn đề chung về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Hội Cựu chiến
binh; tầm quan trọng của công tác vận động cựu chiến binh; thực trạng của công
tác vận động cựu chiến binh ở cơ sở. Do đó, công tác soạn, giảng cần tập trung
vào những nội dung ở phần 1.2 Tổ chức cơ sở của Hội; 1.2.1 Vị trí, vai trò; 1.2.2
Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Hội; 2. Nghiệp vụ công tác Hội Cựu chiến binh và vận
động Cựu chiến binh ở cơ sở; 2.1 Nghiệp vụ tuyên truyền, giáo dục, nâng cao
nhận thức và bản lĩnh chính trị cho cựu chiến binh; 2.2 Nghiệp vụ vận động và
tổ chức cựu chiến binh tham gia phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, các chương
trình, các phong trào của Hội và của địa phương; 2.3 Nghiệp vụ động viên cựu
chiến binh tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng và an
ninh.
Thứ
ba: Giảng viên của trường chính trị, phần lớn làm công tác giảng dạy sau khi
tốt nghiệp đại học. Hiện nay, chất lượng đội ngũ giảng viên của nhà trường đã
được nâng cao nhưng những vấn đề về thực tiễn còn hạn chế. Do vậy, nếu quá tập
trung vào những vấn đề nghiệp vụ của hội sẽ là khó khăn đối với giảng viên và
không phù hợp với mục tiêu của môn học. Đây là một vấn đề đặt ra để khắc phụ
trong công tác soạn, giảng .
Từ thực tiễn quá trình triển khai soạn, giảng và thực hiện giảng dạy đạt
hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu công tác đào tạo lý luận chính trị - hành chính
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, công tác soạn, giảng dạy cần tập
trung thực hiện một số vấn đề sau:
Thứ
nhất: Phải khắc phục tình trạng dàn trải trong công tác soạn và giảng dạy như
hiện nay. Trước hết, khoa Dân vận, đơn vị thực hiện giảng dạy môn học và bài
giảng cần tổ chức sinh hoạt chuyên môn nhằm thống nhất về nội dung trọng tâm
của bài “Nghiệp vụ công tác Hội Cựu chiến binh và vận động cựu chiến binh ở cơ
sở” cần tập trung vào những nội dung thiên về lý luận chung như vị
trí, vai trò, công tác vận động cựu chiến binh. Những nội dung khác giảng viên
cho học viên tự nghiên cứu theo quy định của chương trình và đánh giá kết quả
thông qua bài thu hoạch cá nhân. Trên cơ sở có sự thảo luận và thống nhất trong
khoa, lãnh đạo khoa báo cáo với Ban Giám đốc để có chủ trương chung trong việc
chỉ đạo giảng viên soạn giảng, tập trung vào những nội dung trọng tâm.
Thứ
hai: Đẩy mạnh công tác đổi mới phương pháp giảng dạy, giảng viên cần nghiên
cứu, lựa chọn một số phương pháp giảng dạy tích cực như phương pháp hỏi đáp,
phương pháp lấy ý kiến ghi lên bảng, phương pháp hỏi chuyên gia. Mục đích là
phát huy tính tích cực và hiểu biết thực tiễn của học viên. Với đối tượng học
viên là cán bộ đang công tác ở cơ sở có hiểu biết nhiều về thực tiễn thì việc
giảng dạy nặng về thuyết trình là không phù hợp. Do đó, đổi mới phương pháp
giảng dạy có tính cấp bách, bảo đảm thực hiện hiệu quả công tác giảng dạy đối
với môn học này là cần thiết.
Thứ
ba: Khắc phục hạn chế về kiến thức thực tiễn của giảng viên. Hàng năm,
giảng viên giảng dạy môn học “Nghiệp vụ công tác Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân
dân ở cơ sở” nói chung và bài “Nghiệp vụ công tác Hội Cựu chiến binh
và vận động cựu chiến binh ở cơ sở ” nói riêng cần phải xây dựng kế
hoạch nghiên cứu thực tế, xác định những nội dung, vấn đề cần khảo sát thực
tiễn nhằm bổ sung thực tiễn vào trong bài giảng.
Thực tiễn cho thấy, công tác cựu chiến binh và công tác vận động cựu
chiến binh trên địa bàn tỉnh có nhiều thành công, góp phần quan trọng vào thực
hiện thành công các chương trình kinh tế - xã hội lớn trong nông nghiệp, nông
thôn của tỉnh là có sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa
phương. Tuy nhiên, việc tiếp cận, thu thập những vấn đề thực tiễn của giảng
viên còn rất hạn chế. Điều đó dẫn tới bài giảng nặng về lý thuyết, thiếu tính
thuyết phục, tính tuyên truyền. Khắc phục tình trạng này phụ thuộc nhất lớn vào
tính chủ động, tính nghiêm túc của giảng viên trong hoạt động nghiên cứu thực
tế.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân được rút ra thông qua quá
trình soạn và triển khai giảng dạy bài “Nghiệp vụ công tác Hội Cựu chiến binh và
vận động cựu chiến binh ở cơ sở” của môn Nghiệp vụ công tác Mặt trận
Tổ quốc và đoàn thể nhân dân ở cơ sở. /.
CHI BỘ PHÒNG TỔ CHỨC - HÀNH CHÍNH - QUẢN
TRỊ
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT
THEO TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
CN. NGUYỄN VĂN ĐỨC
Phó Bí thư Chi bộ phòng TC - HC - QT
Chủ
nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; sự thành
công của phong trào công nhân trong mỗi nước chỉ có thể được bảo đảm bằng sức
mạnh của sự thống nhất, thống nhất về hành động và thống nhất về tổ chức.
V.I.Lênin nhấn mạnh: “Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, Đảng phải có sự thống
nhất ý chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối; đoàn kết là nguồn gốc, sức mạnh chủ
yếu, vô tận và vô địch của Đảng”.
Vận dụng sáng tạo học thuyết
Mác - Lênin về chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, kế thừa những giá
trị tốt đẹp của truyền thống đoàn kết dân tộc, trong quá trình xây dựng, rèn
luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây
dựng và giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng, nhằm làm cho Đảng thành một
khối vững chắc về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo toàn
diện và sức chiến đấu cao.
Theo Người đoàn kết thống
nhất trong Đảng không phải là “đoàn
kết một chiều”, “bằng mặt mà không bằng lòng”, lúc cần thì hợp lực,
không cần thì tìm cách lật đổ nhau… mà đoàn kết thống nhất trong Đảng phải là
một truyền thống quý báu, đoàn kết phải trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin,
với tình cảm cách mạng trong sáng, tình thương yêu đồng chí, đồng bào. Bác đã
chỉ dẫn, Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người và nhờ
vậy “Cách mạng nhất định thành
công. Ta thành công chính vì ta đoàn kết, quyết tâm, tin tưởng”.
Khẳng định vai trò quan
trọng của đoàn kết thống nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn rằng: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục
vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên ngay từ ngày thành lập
đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu
tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi
bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”.
Đoàn kết, thống nhất trong
Đảng là mỗi đảng viên phải gương mẫu, nói đi đôi với làm, “đoàn kết không phải
ngoài miệng mà phải đoàn kết trong công tác, trong tự phê bình và phê bình giúp
nhau tiến bộ”.
Thực hiện lời căn dặn của
Người, trong những năm qua cùng với Đảng bộ trường Chính trị Trường Chinh tỉnh
Nam Định, Chi bộ phòng Tổ chức - Hành
chính - Quản trị không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu, khẳng định vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị, xây dựng
một tập thể đoàn kết thống nhất, gắn bó tâm huyết với sự phát triển đi lên của
nhà trường.
Là một Chi bộ trực thuộc
Đảng bộ trường Chính trị Trường Chinh, Chi bộ phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị có chức năng, nhiệm vụ tham
mưu cho lãnh đạo nhà trường, đồng thời lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
chính trị trên ba mặt công tác, đó là tổ chức, hành chính, quản trị, khớp nối
các hoạt động của nhà trường đảm bảo vận hành thông suốt, hiệu quả.
Chi bộ có 13 đảng viên, với
số lượng đảng viên nhiều nhất trong Đảng bộ. Về trình độ chuyên môn, Thạc sĩ: 3
đồng chí; Cử nhân, Đại học: 5 đồng chí; 2 đồng chí đang theo học Đại học; Trung
cấp: 2 đồng chí. Phòng gồm nhiều bộ phận chuyên môn khác nhau, có sự chênh lệch
về trình độ, nhận thức không đồng đều, tính chất công việc đa dạng, phức tạp,
thường xuyên có phát sinh... Đặc biệt trong những năm gần đây, trước yêu cầu
nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh ngày càng cao, các lớp mở tại
trường nhiều lên với số lượng học viên rất đông. Đội ngũ cán bộ chủ chốt, giảng
viên và nhân viên nhà trường có nhiều đồng chí về nghỉ chế độ hưu trí, tạo biến
động về nhân sự và biên chế. Cùng với đó nhà trường tiến hành xây dựng, cải tạo
nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học… Khối lượng công
việc tăng lên nhiều ở cả 3 lĩnh vực: tổ chức, hành chính, quản trị trong khi
nguồn nhân lực của Phòng không tăng đã khách quan tạo nên những khó khăn, thách
thức. Song tập thể Chi bộ phòng đã
luôn đoàn kết chặt chẽ, chủ động phối hợp, tương trợ, động viên nhau vượt lên
mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Hàng năm 100%
cán bộ, đảng viên đều hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhiều đồng chí cán bộ, đảng viên
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở và
Bằng khen của UBND tỉnh. Chi bộ nhiều năm liên tục đạt danh hiệu trong sạch
vững mạnh tiêu biểu.
Sở dĩ có được thành tích đó
là do Chi bộ đã thường xuyên quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện có hiệu
quả các chủ trương, chỉ thị của cấp ủy cấp trên. Động viên tất cả đảng viên và
quần chúng của Phòng tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao nhận thức về mọi
mặt. Thường xuyên quan tâm làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tạo
bầu không khí dân chủ, cởi mở trong tập thể, phát huy tính chủ động sáng tạo
của từng cán bộ, đảng viên trong sinh hoạt cũng như trong công việc. 100% đảng
viên của Chi bộ đều đăng ký học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh theo đúng chuyên đề Đảng ủy nhà trường triển khai. Kịp thời ghi
nhận, tuyên dương những cá nhân, những bộ phận đạt thành tích trong công tác và
các phong trào thi đua do Đảng ủy, nhà trường, các đoàn thể chính trị phát
động. Hầu hết cán bộ, đảng viên,
nhân viên Phòng Tổ chức - Hành chính -
Quản trị có lối sống khiêm tốn, giản dị, trung thực, nhiệt tình, tâm
huyết, ứng xử với nhau bằng tình đồng chí, đồng nghiệp chân thành trong sáng,
thấm nhuần đạo đức, đạo lý tình người qua các quan hệ cũng như trong giải quyết
công việc hằng ngày. Đó là phẩm chất đạo đức truyền thống rất quý để chi bộ
phát huy, xây dựng khối đoàn kết, tình thương yêu gắn bó của tập thể phòng
trong nhiều năm qua.
Trong thời gian tới, bám sát
yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ nhà trường, phát huy truyền thống đoàn
kết gắn bó của Chi bộ, đồng thời tích cực tiếp thu những kinh nghiệm xây dựng
đoàn kết thống nhất theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để tiếp tục xây
dựng tập thể Chi bộ trong sạch vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao nhiệm vụ chính trị của nhà trường.
Mỗi
cán bộ, đảng viên cần thực hiện một số giải pháp theo hướng sau:
Một là, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, coi
trọng rèn luyện đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tình yêu thương đồng chí, tôn
trọng lẫn nhau cho cán bộ, đảng viên. Bởi sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
trước hết bắt nguồn từ sự hiểu biết và giác ngộ chính trị của mỗi đảng viên. Vì
vậy, công tác tuyên truyền có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để nâng cao trình độ
nhận thức cho mỗi đảng viên, có như vậy mới tạo sự đoàn kết thống nhất cao. Một
mặt chi bộ phải thường xuyên chăm lo bồi dưỡng, xây dựng tình cảm gắn bó giữa
những cán bộ, đảng viên với nhau, giữa cán bộ, đảng viên với quần chúng. Mặt
khác mỗi cán bộ, đảng viên cần phấn đấu, rèn luyện trau dồi tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau. Xem đó vừa là một chuẩn mực đạo đức cách mạng, vừa là một
nhân tố cơ bản để xây dựng và bảo vệ sự đoàn kết thống nhất trong Chi bộ.
Hai là, nâng cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ, thực hiện
nghiêm túc các nguyên tắc xây dựng Đảng, đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt
nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ. Trong sinh hoạt, trên cơ sở nắm chắc
tình hình tư tưởng và kết quả thực hiện nhiệm vụ, Chi bộ kịp thời biểu dương
những đảng viên gương mẫu. Mặt khác, đoàn kết không có nghĩa là bao biện, che
giấu khuyết điểm cho nhau mà đoàn kết là giúp nhau chỉ rõ những mặt mạnh, những
hạn chế của từng người để cùng giúp nhau khắc phục, tiến bộ để chi bộ thực sự
là nơi quản lý, giáo dục, đào tạo, rèn luyện và sàng lọc đội ngũ đảng viên. Do đó, chi bộ cần thực hiện tự phê bình và phê bình thường xuyên như
“rửa mặt hàng ngày” và cần tiến hành từ trên xuống, trước hết trong cấp ủy, cán
bộ chủ chốt phải gương mẫu tự phê bình và tiếp thu phê bình, xây dựng bầu không
khí cởi mở, dân chủ, đoàn kết trong chi bộ và đơn vị.
Ba là, không ngừng phát huy vai trò tiên phong gương
mẫu của người đứng đầu - Bí thư Chi bộ. Cả trong lý luận và thực tiễn đều chứng
minh đối với mỗi một chi bộ, hình ảnh người Bí thư luôn là hạt nhân trung tâm
đoàn kết, là người quy tụ sự thống nhất ý chí, tư tưởng và hành động trong chi
bộ. Vì vậy, Bí thư chi bộ luôn là người mẫu mực về đoàn kết; kết hợp, xử lý hài
hòa giữa các lợi ích, đặt lợi ích tập thể, lợi ích chi bộ lên trên hết; là
người gương mẫu trong lối sống, trong công tác, hòa đồng với mọi người, không
phân biệt đối xử…, tạo bầu không khí trong tập thể luôn ấm áp, chan hòa, tất cả
mọi thành viên đều có tinh thần trách nhiệm cao, nhờ đó tạo được sự đoàn kết
thống nhất trong chi bộ.
Bằng những việc làm thiết
thực, cụ thể của tập thể cán bộ, đảng viên Chi bộ phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị sẽ tiếp tục kế thừa, phát
huy truyền thống đoàn kết thống nhất, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Chi bộ, từ đó góp phần xây dựng tập thể Đảng bộ nhà trường thành
một khối đoàn kết, thống nhất cao, giữ vững thành tích Đảng bộ trong sạch, vững
mạnh tiêu biểu, xứng đáng là đơn vị đứng đầu trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh./.
ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG
NGHIÊN CỨU THỰC TẾ CỦA GIẢNG VIÊN
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG
CHINH TỈNH NAM
ĐỊNH HIỆN NAY
THS, GVC.
CAO THỊ THU HIỀN
Phó Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học - TT - TL
Nghiên cứu thực tế là một trong những nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên của giảng viên trường chính trị cấp tỉnh nhằm nâng cao kiến
thức thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng bài giảng của giảng viên.
Nghiên cứu thực tế tại trường chính trị cấp tỉnh là
hoạt động thực hiện nhiệm vụ của giảng viên đi khảo sát, tìm hiểu, liên hệ thực
tế với lý luận nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy tại trường. Nghiên cứu thực
tế giúp giảng viên có thêm tri thức kinh nghiệm thực tiễn, từ đó làm rõ các vấn
đề lý luận, gợi mở cho học viên trong công tác xử lý linh hoạt, phù hợp thực tế
đời sống trên cơ sở đảm bảo đúng nguyên tắc lãnh đạo, quản lý.
Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định là đơn
vị sự nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, dưới sự quản lý chuyên
môn của Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trong những năm qua, nhà
trường luôn thực hiện tốt sự chỉ đạo về chuyên môn của Học viện nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho tỉnh góp phần thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị của địa phương. Hàng năm, nhà trường cử nhiều lượt cán bộ,
giảng viên đi nghiên cứu thực tế ở cơ sở, ở các cơ quan trong tỉnh và ngoài
tỉnh để nâng cao kiến thức thực tiễn, làm giàu cho nội dung bài giảng thêm sinh
động. Nhà trường hiện nay có 39 giảng viên, trong đó có 12 giảng viên chính, 02
giảng viên tập sự. Nhà trường luôn tạo điều kiện để các giảng viên hoàn thành
tốt nhiệm vụ nghiên cứu thực tế của mình.
Nhiệm vụ nghiên cứu thực tế của giảng viên được quy
định cụ thể trong quy chế giảng viên ban hành kèm theo Quyết định 1855/QĐ-HVCTQG
ngày 21/4/2016 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Theo quy
chế: tiêu chuẩn cụ thể của giảng viên là: có khả năng nghiên cứu khoa học và
tổng kết thực tiễn; nhiệm vụ chung của giảng viên là: tham gia nghiên cứu khoa
học, tổng kết thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập; góp phần
vào phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở địa phương, phát triển lý luận; đấu
tranh chống những luận điểm sai trái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước (khoản 2, Điều 5); giảng viên phải đi thực tế tại cơ sở
(khoản 4, Điều 5); nhiệm vụ cụ thể của giảng viên là: nghiên cứu thực tế và
hướng dẫn học viên đi nghiên cứu thực tế 15
ngày/năm học (Điều 6). Như vậy, giảng viên có nhiệm vụ phải đi nghiên cứu thực
tế. Vai trò của nghiên cứu thực tế đối với giảng viên rất quan trọng, đặc biệt
là tìm hiểu thực tế ở cơ sở đối với giảng viên trường chính trị cấp tỉnh.
Đối với trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định, hoạt
động nghiên cứu thực tế luôn được đổi mới. Hàng năm, trên cơ sở đăng ký nội
dung nghiên cứu thực tế của các đơn vị, nhà trường ban hành kế hoạch hoạt động
nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế trong năm đối với cán bộ, giảng viên
nhà trường trong năm. Từ đó, căn cứ vào tình hình cụ thể, các đơn vị chủ động
phối hợp với các đơn vị liên quan để triển khai thực hiện đảm bảo về thời gian,
địa điểm, nội dung theo quy định. Với việc hướng dẫn học viên đi nghiên cứu
thực tế ở các lớp Trung cấp lý luận chính trị - hành chính, thời gian, địa điểm
phụ thuộc vào lịch đào tạo cụ thể ở các lớp học. Cuối năm, nhà trường đánh giá
kết quả nghiên cứu thực tế, các giảng viên báo cáo kết quả trước Hội đồng
nghiệm thu kết quả nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế của nhà trường.
Nghiên cứu thực tế của giảng viên trong những năm gần
đây hoạt động đã nề nếp hơn, hình thức nghiên cứu đa dạng, thực tiễn đã được
vận dụng trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng yêu
cầu hiện nay, còn một số tồn tại như
sau:
Thứ nhất: Việc đăng ký nội dung nghiên cứu của các đơn vị còn dàn trải ra nhiều
vấn đề, vì vậy khó tổng hợp để liên hệ nghiên cứu tập trung vào một số nội dung
ở cơ sở. Hơn nữa hiện nay, việc đi nghiên cứu theo hình thức tập thể chủ yếu là
nghe báo cáo trao đổi trong hội nghị hoặc đến một điểm có điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn hoặc điển hình tiến tiến trong một khoảng thời gian ngắn nên
cùng lúc không thể đáp ứng các nội dung tìm hiểu của từng giảng viên, việc liên
hệ giữa lý luận và thực tiễn không nhiều. Đối với nghiên cứu thực tế theo nhóm
hay cá nhân, các giảng viên về cơ sở thường chỉ được cung cấp những báo cáo có
sẵn, không được trao đổi như trên hội nghị nên thực tiễn thu được còn hạn chế.
Thứ hai:
Cơ chế phối hợp giữa các bộ phận trong việc tổ chức cho đoàn nghiên cứu đi thực
tế còn chưa đồng bộ. Đối với các lớp đặt tại trường, việc tổ chức cho giảng
viên đi hướng dẫn học viên nghiên cứu thực tế cơ bản thuận lợi, giảng viên xác
định rõ đối tượng học viên và nội dung, thời gian, địa điểm nên chủ động mọi
mặt. Tuy nhiên, với các lớp đặt tại các đơn vị phối hợp ở huyện, thành phố, do
cơ chế phối hợp trong tổ chức đi nghiên cứu thực tế chưa thực sự tốt nên giảng
viên được cử đi hướng dẫn nhiều khi còn bị động. Giảng viên chưa nắm rõ đối
tượng mình hướng dẫn, nội dung thực tế học viên quan tâm tìm hiểu, chưa có sự
chuẩn bị trước nội dung cần hướng dẫn nên hiệu quả chưa cao, việc liên hệ giữa
lý luận và thực tiễn còn hạn chế.
Thứ ba: Về đánh giá kết quả nghiên cứu thực tế: mục đích đánh giá kết quả
nghiên cứu thực tế để xem xét giảng viên có hoàn thành nhiệm vụ hay không. Tuy
nhiên, hiện nay tiêu chí đánh giá còn chung chung, vì vậy, các báo cáo nhiều
khi còn mang tính hình thức, tình huống thực tế chưa nhiều, vận dụng giữa lý
luận và thực tiễn trong kết quả soạn giảng và nghiên cứu khoa học của giảng
viên còn hạn chế.
Để hạn chế những bất cập trên, chúng ta cần đổi mới
nghiên cứu thực tế theo các hướng sau:
Thứ nhất: Đổi mới công tác quản lý thực tế:
Phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu tiếp tục tham mưu cho Ban
Giám đốc quản lý hồ sơ nghiên cứu thực tế chặt chẽ, đầy đủ để thuận lợi cho
việc liên hệ thực tế và đánh giá kết quả nghiên cứu thực tế của giảng viên.
Về nội dung nghiên cứu thực tế, các đơn vị cần đăng ký
tập trung nghiên cứu vào một vài chủ đề cơ bản, phù hợp với tình hình cụ thể
của địa phương. Trên cơ sở đó, các cơ sở đón tiếp đoàn nghiên cứu sẽ thuận lợi
hơn trong việc cung cấp thông tin cho giảng viên, giúp giảng viên tiếp thu được
kiến thức thực tiễn hiệu quả, vận dụng trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy.
Về thời gian nghiên cứu: Hiện nay, giảng viên thường
đi nghiên cứu mỗi cơ sở là 01 ngày. Thực tế, qua trao đổi, có những tình huống
cơ sở đang băn khoăn chưa giải quyết được, mà để giải quyết cần nghiên cứu lý
luận, nghiên cứu văn bản để vận dụng, đòi hỏi thời gian nhiều hơn. Vậy, đổi mới
nghiên cứu thực tế, giảng viên có thể đi nghiên cứu nhiều ngày tại một địa
phương, có thể sau hội nghị, giảng viên trực tiếp xuống thôn, xóm tìm hiểu, sau
đó về nghiên cứu giữa lý luận và thực tiễn, hôm khác có thể quay lại trao đổi,
thống nhất với địa phương để tìm ra giải pháp giải quyết tình huống. Điều đó
vừa nâng cao kiến thức thực tiễn cho giảng viên, vừa giúp cán bộ cơ sở vận dụng
lý luận vào thực tiễn.
Thứ hai: Về cơ chế phối hợp trong tổ chức đi thực tế: ngay từ hội nghị mở lớp,
nhà trường và các đơn vị phối hợp mở lớp, các bộ phận có liên quan cần có sự
thỏa thuận về phương thức phối hợp đào tạo, trong đó có việc tạo điều kiện để
giảng viên đi nghiên cứu thực tế ở các cơ sở, các sở, ban, ngành trong tỉnh.
Trên cơ sở đó, giảng viên đi liên hệ thực tế ở các đơn vị trực thuộc các huyện,
thành phố và các cơ quan chuyên môn trong tỉnh sẽ thuận lợi hơn.
Đối với việc hướng dẫn học viên các lớp Trung cấp lý
luận chính trị -hành chính đặt tại các đơn vị phối hợp đi nghiên cứu thực tế,
giảng viên cần được cung cấp trước danh sách học viên, nội dung học viên đăng
ký nghiên cứu, từ đó giảng viên chủ động chuẩn bị nội dung hướng dẫn, giúp việc
tiếp thu kiến thức thực tiễn cho giảng viên và học viên đạt kết quả tốt hơn.
Thứ ba:
Về phương thức nghiên cứu: nghiên cứu thực tế bao gồm đi nghiên cứu và khảo cứu
trên cơ sở tài liệu, thông tin thu thập được. Để đảm bảo đủ định mức nghiên cứu
thực tế cho giảng viên, chúng ta cần linh hoạt đổi mới nghiên cứu theo hướng:
giảng viên có thể dành ½ quỹ thời gian theo quy định để đi thực tế, ½ quỹ thời
gian còn lại giảng viên tự nghiên cứu tài liệu thu thập được tại cơ quan, đơn
vị để làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn. Điều đó vừa tiết kiệm được thời
gian đi lại đồng thời tăng hiệu quả nghiên cứu thực tế của giảng viên.
Thứ tư: Về đánh giá kết quả nghiên cứu thực tế: Trên cơ sở quy định của Học
viện, để thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đáp ứng yêu cầu hiện nay, báo cáo
kết quả nghiên cứu thực tế (kèm số liệu thu thập được) của giảng viên cần có
xác nhận của cơ sở, nơi giảng viên đến nghiên cứu để đảm bảo tính thực tiễn,
tính ứng dụng và khách quan khoa học. Các đơn vị có thể đăng ký hội đồng khoa
học cho tổ chức để đánh giá kết quả nghiên cứu ngay sau khi đi thực tế để tránh
dồn việc vào cuối năm như hiện nay, vừa đảm bảo tính thời sự, vừa cập nhật thực
tiễn vào giảng dạy và nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng viên nhà trường.
Nghiên cứu thực tế là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của giảng viên trường chính trị cấp tỉnh. Nghiên cứu thực tế giúp cho
giảng viên có kiến thức thực tiễn vững vàng hơn, gắn lý luận với thực tiễn, đào
sâu chuyên môn nghiệp vụ. Đổi mới hoạt động nghiên cứu thực tế của giảng viên
góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu thực tế của giảng viên đáp ứng yêu cầu
hiện nay./.
CÁN BỘ, VIÊN CHỨC, NHÂN VIÊN HÀNH CHÍNH
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH
TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
THS, GVC. HOÀNG THỊ CHÂU YÊN
Trưởng
phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị
Đối với một trường Chính trị tỉnh, ngoài giảng viên là
lực lượng nòng cốt thì cán bộ, viên chức, nhân viên hành chính cũng là đội ngũ
không thể thiếu trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Họ là
những người làm việc tại trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định, trong
biên chế hoặc theo Hợp đồng 68, không hưởng lương theo mã ngạch giảng viên.
Đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên hành chính hiện
nay của nhà trường bao gồm 15 đồng chí trên tổng số 55 biên chế hiện có. Trong
đó: Nam
là 06 đồng chí, nữ 19 đồng chí. Trình độ chuyên môn: 10 đồng chí có bằng đại
học, 01 đồng chí có bằng cao đẳng, 04 đồng chí có bằng trung cấp chuyên môn và
trung cấp nghề (02 đồng chí đang học Đại học). Về trình độ lý luận chính trị:
02 đồng chí có giấy chứng nhận tương đương Cao cấp lý luận chính trị, 04 đồng
chí có bằng Trung cấp lý luận chính trị - hành chính (01 đồng chí đang học
Trung cấp lý luận chính trị - hành chính). Có 2 đồng chí giữ chức vụ phó phòng,
01 kế toán trưởng.
Với lực lượng hiện có đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân
viên hành chính của trường Chính trị Trường Chinh đã và đang tham gia tích cực
vào các hoạt động phục vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của nhà trường.
Bộ phận tài vụ tham mưu kịp thời về chế độ và các thủ
tục tài chính cần thiết đảm bảo cho hoạt động của lớp học. Các bộ phận: thư
viện, trang thiết bị dạy và học, âm thanh, ánh sáng, phục vụ hội trường, phòng
học, bếp ăn, nhà nghỉ học viên, bảo vệ, lái xe đưa đón giảng viên,…hoạt động
khá nhịp nhàng, có ý thức trách nhiệm cao nhằm hoàn thành mục tiêu của mỗi khóa
học. Điều đó cho thấy cán bộ, viên chức, nhân viên hành chính đóng vai trò quan
trọng, họ “lặng thầm đứng sau cánh gà” cùng chung sức với đội ngũ cán bộ, giảng
viên hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của nhà trường.
Trong những năm qua, tập thể lãnh đạo nhà trường cũng
đã quan tâm sát sao đến đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên hành chính:
Một là, nhà trường tạo điều kiện cho các đồng chí đi học tập
nâng cao trình độ (Tính từ năm 2010 đến nay có 08 đồng chí được chọn cử đi học
từ cao đẳng, trung cấp lên đại học, 05 đồng chí học Trung cấp lý luận chính trị
- hành chính);
Hai là, tạo điều kiện, tiến hành các thủ tục cần thiết để thi
chuyển ngạch viên chức (có 04 đồng chí được chuyển từ ngạch cán sự, nhân viên
lái xe lên ngạch viên chức tương đương chuyên viên).
Ba là, chú trọng cải thiện nâng cao thu nhập cho đội ngũ.
Mặc dù bản thân đội ngũ nỗ lực cố gắng phấn đấu và đã
được tập thể lãnh đạo nhà trường quan tâm song cũng phải thẳng thắn thừa nhận
đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên hành chính hiện nay do lịch sử để lại nên
nhìn chung trình độ còn thấp so với mặt bằng chung toàn cơ quan, ít đồng chí đủ
điều kiện để quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ lần đầu theo quy định hiện hành. Số
lượng nhân viên hành chính theo Hợp đồng 68 khá cao (6/15 đồng chí). Trình độ
chuyên môn, nhận thức chính trị của ngay trong đội ngũ cũng có sự chệnh lệch.
Đại bộ phận đội ngũ này có thu nhập thấp, có đồng chí rất thấp, thu nhập không
đủ để trang trải các điều kiện tối thiểu đáp ứng nhu cầu của cuộc sống nên đôi
khi chưa thực sự yên tâm công tác.
Phát huy thành tích đã đạt được, từng bước khắc phục
những hạn chế của đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên hành chính nhà trường
rất cần sự chung tay của hệ thống. Cụ thể:
Thứ nhất, bản thân đội ngũ cần tiếp tục kiên định, giữ vững lập
trường, nâng cao thức trách nhiệm, chủ động, sáng tạo trong các khâu phục vụ
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ, giảng viên của nhà trường tăng cường
sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, giao tiếp công sở đúng mực với cán bộ, viên
chức, nhân viên hành chính.
Thứ ba, nhà trường tiếp tục tạo điều kiện chọn cử các đồng
chí trong đội ngũ này đi học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, nhất là các khóa
bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ, trong đó chú trọng bồi dưỡng nguồn cán bộ để chủ
động quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ tại chỗ, không phải đưa nhân sự từ các khoa,
phòng khác về. Trong các Nghị quyết chuyên đề của Đảng ủy, các đoàn thể cần
quan tâm đặc biệt đến đội ngũ này (Hiện tại Nghị quyết số 05-NQ/ĐU ngày
09/6/2016 của Đảng ủy nhà trường mới chỉ dừng lại ở đội ngũ cán bộ, giảng
viên).
Thứ
tư, đề nghị với cấp có thẩm quyền (Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Nội vụ, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ,…) xem xét chế độ phụ cấp công vụ hoặc phụ cấp
khối đảng cho cán bộ, viên chức nhân viên hành chính. Hiện tại họ không được
hưởng bất kỳ chế độ phụ cấp nào, ngoại trừ phụ cấp chức vụ (02 đồng chí phó
phòng), phụ cấp trách nhiệm (kế toán trưởng) và phụ cấp đoàn thể (nếu có). Đây
là sự bất cập về mặt chế độ, chính sách với đội ngũ này trong hệ thống các
trường chính trị tỉnh trên toàn quốc. Mặc dù, nhà trường đã tạo điều kiện cải
thiện phần nào về mặt thu nhập cho các đồng chí nhưng đấy mới chỉ dừng lại ở
giải pháp tạm thời, chưa bền vững. Thực tế, nhà trường trong những năm qua đã
thực hiện việc tuyển dụng hoặc điều động giảng viên về thực hiện các công việc
phục vụ đào tạo điều này bộc lộ sự bất cập đó là gia tăng đội ngũ giảng viên
kiêm nhiệm trong khi giảng viên cơ hữu có lúc thiếu hụt, hơn nữa có những vị
trí việc làm giảng viên kiêm nhiệm thực hiện công việc phục vụ chưa hẳn đã hiệu
quả hơn viên chức, nhân viên hành chính. Đây cũng là sự chưa hợp lý trong bố
trí nhân sự tương ứng với mỗi vị trí việc làm.
Thứ năm, các cơ quan có thẩm quyền khi sửa đổi Quyết định 184
của Ban Bí thư quy định chức năng nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy của các trường
chính trị cấp tỉnh nên xem xét tách bộ phận Tổ chức riêng ra khỏi bộ phận Hành
chính - Quản trị sẽ tạo điều kiện thuận lợi khi thực hiện công tác nhân sự dự
kiến bổ nhiệm chức vụ trưởng, phó phòng. Hoặc Ban Tổ chức Tỉnh ủy - cơ quan
tham mưu, giúp việc cho tỉnh trong công tác tổ chức cán bộ tham mưu xem xét
tính đặc thù của phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị, trường Chính trị Trường
Chinh để đưa ra tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm cán bộ, khắc phục tình trạng
phải đưa nhân sự từ các khoa, phòng khác mang mã ngạch giảng viên về giữ chức
vụ trưởng, phó phòng. Điều này vừa lãng phí nguồn nhân lực vừa hạn chế cơ hội
phấn đấu của nhân sự tại chỗ.
Có thể nói, đối với tập thể trường Chính trị Trường
Chinh không có sự chia tách biệt lập giữa cán bộ, giảng viên và cán bộ, viên
chức, nhân viên hành chính mà là một khối đoàn kết thống nhất cùng thực hiện
mục tiêu chính trị chung đó là sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh.
Ngày 20/11 luôn là ngày Hội chung, ngày tri ân của các thế hệ học viên và xã
hội dành cho toàn trường. Với niềm vinh dự và tự hào ấy đội ngũ cán bộ, viên
chức, nhân viên hành chính vẫn luôn tâm huyết, mẫn cán thực hiện công việc thầm
lặng của mình sát cánh cùng cán bộ, giảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
chính trị của nhà trường./.
DÂN
CHỦ TRỰC TIẾP Ở VIỆT NAM
- LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
(Sách chuyên khảo)
Tác giả: PGS,
TS. Nguyễn Văn Mạnh, ThS. Tào Thị Quyên (chủ biên)
Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính
Năm xuất bản: 2010
Số trang: 158
CN. PHẠM TỐ UYÊN
Giảng viên
phòng Nghiên cứu khoa học - TT - TL
Dân chủ gắn bó chặt chẽ với
quyền sống của con người, là nhu cầu không thể thiếu của từng cá nhân cũng như
của cộng đồng người trong xã hội, nhất là xã hội văn minh. Dân chủ gắn liền với
tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, các chế độ xã hội
khác nhau. Chủ tịch Lênin quan niệm: Chế độ dân chủ là chế độ thống trị của đa
số đối với thiểu số. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: Dân chủ là của quý báu
nhất của nhân dân, là làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền
dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Dân chủ
vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước; dân chủ gắn liền với kỷ
luật kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật đảm bảo;
dân chủ là nguyên tắc tổ chức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ðể đạt mục tiêu đó, cần phải bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân và dân chủ phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt Hiến pháp. Người
dân thực hiện quyền làm chủ của mình dựa trên hai hình thức. Dân chủ trực tiếp là một trong hai dạng thức của dân chủ. Với dân chủ trực
tiếp, người dân tự mình quyết định các luật lệ và chính sách quan trọng, góp
phần xây dựng sự phát triển của cộng đồng và đất nước.
Chính vì tầm quan trọng đó, xin
trân trọng giới thiệu tới bạn đọc cuốn Dân
chủ trực tiếp ở Việt Nam,
lý luận và thực tiễn (sách
chuyên khảo). Cuốn sách sẽ cho bạn đọc một cái nhìn toàn cảnh các vấn đề xoay
quanh dân chủ và dân chủ trực tiếp. Để làm sâu sắc thêm các vấn đề, các tác giả
tập trung nghiên cứu trong 3 chương cơ bản:
Chương I, các tác giả làm rõ một số vấn đề lý luận
về dân chủ và dân chủ trực tiếp. Những tư tưởng, quan niệm về dân chủ nói chung
rất đa dạng, phong phú, nhiều phương diện, nhiều cách tiếp cận. Đó là tập hợp
những tư tưởng, nguyên tắc về quyền lực của nhân dân. Các tác giả tập trung
nghiên cứu dân chủ dưới góc độ là một chế độ nhà nước, trong đó quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, xuất phát từ nhân dân và do nhân dân thực hiện. Trong
đó, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, dân chủ trực tiếp được kế
thừa, vận dụng, phát triển rất nhiều so với dân chủ sơ khai thời cổ đại. Đây
được coi như là một công cụ pháp lý quan trọng để có được ý kiến của đa số nhân
dân về những vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương, cho dù còn có những ý
kiến ủng hộ và không ủng hộ dân chủ trực tiếp. Theo đó, nội dung các hình thức
của dân chủ trực tiếp nói chung được các tác giả tập trung phân tích cụ thể, rõ
nét. Thông qua bầu cử và ứng cử; biểu quyết khi được trưng cầu ý kiến; thảo
luận; bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; giám sát hoạt
động, khiếu nại, tố cáo đối với vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức cơ quan
nhà nước; đặc biệt là với việc thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở, nhà nước
được xây dựng hợp pháp theo ý nguyện của toàn dân. Bên cạnh đó, các tác giả cũng
khẳng định, dân chủ có thể phát huy được một cách đầy đủ nếu được kết hợp với
các hình thức tự quản mà sự tự quản đó không phải là sự tự trị tách rời khỏi
các thiết chế dân chủ.
Chương II, cuốn sách tập trung phân tích việc thực
hiện các hình thức dân chủ trực tiếp tại Việt Nam nói riêng. Trong đó, các tác
giả làm sâu sắc quan điểm chỉ đạo việc thực hiện các hình thức dân chủ trực
tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đó là việc chú trọng và bảo đảm dân chủ trong bầu cử, ứng cử; bảo đảm phát huy
vai trò của nhân dân trong việc xây dựng chính sách, pháp luật và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước; đề cao vai trò kiểm tra, giám sát và giải
quyết các yêu cầu, kiến nghị khiếu nại, tố cáo của nhân dân; đặc biệt là việc
chú trọng triển khai thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở là những nội dung cơ
bản thể hiện sự quyết tâm ngày càng mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp và
làm sâu sắc hơn, thực chất hơn việc thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp
của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đi sâu phân tích thực
trạng tổ chức thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp ở Việt Nam hiện nay.
Các tác giả chỉ rõ, mặc dù Đảng đã luôn quan tâm, chỉ đạo kịp thời, sâu sát về
khâu thực hiện, một số hình thức dân chủ được nhấn mạnh nhiều trong Hiến pháp và
pháp luật của Nhà nước nhưng trên thực tế còn thiếu những thiết chế đảm bảo
thực hiện một cách cụ thể và hiệu quả. Việc bầu cử, ứng cử và giám sát hoạt
động các cơ quan, cán bộ công chức và thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở vẫn
còn một số biểu hiện mang tính hình thức, khâu vận động tranh cử còn mờ nhạt;
quyền bãi miễn và trưng cầu ý dân chưa có đủ cơ sở pháp lý nên còn lúng túng;
các quy định về thảo luận góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật còn chung
chung, chưa rõ trách nhiệm của từng cơ quan tổ chức có thẩm quyền và việc triển
khai đôi lúc còn hình thức, tùy tiện; quyền khiếu nại, tố cáo đối với những
hành vi trái pháp luật được thực hiện theo đúng quy định…
Trong chương III, các tác giả làm rõ những quan
điểm, giải pháp mở rộng và phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp ở Việt Nam hiện nay.
Các quan điểm xoay quanh việc đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, Pháp chế xã hội chủ nghĩa; đảm bảo kỷ cương, kỷ
luật của Nhà nước; đặc biệt phải tiến hành phù hợp với các điều kiện kinh tế -
xã hội gắn liền với phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế. Theo đó, tác giả
nhấn mạnh các giải pháp cần thực hiện, đó là tiếp tục hoàn thiện các hình thức
dân chủ trực tiếp đã được quy định trong pháp luật hiện hành, đồng thời nghiên
cứu, bổ sung và xây dựng các hình thức dân chủ trực tiếp mới. Đó là việc xây
dựng ban hành Luật Trưng cầu ý dân, trong đó nội dung, quyền hạn, trách nhiệm,
tuyên truyền, đánh giá và sử dụng kết quả trưng cầu được các tác giả phân tích
rất rõ; phản biện xã hội; đặc biệt các tác giả cũng nhấn mạnh pháp luật về biểu
tình cần sớm triển khai nghiên cứu và ban hành các văn bản pháp luật để tạo cở
sở pháp lý cho nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình, góp phần xây dựng sự
phát triển bền vững của đất nước.
Những nội dung trong cuốn sách được trình bày hết
sức cô đọng, ngôn từ diễn giải dễ hiểu dễ nhớ và đây sẽ là một tư liệu quý cho
những ai quan tâm đến những vấn đề chính trị của quốc gia, đến sự phát triển
của đất nước hiện nay và trong tương lai, đặc biệt dành cho những bạn đọc là
những người tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước./.
NAM ĐỊNH QUÊ
TÔI
Trần Xuân
Trà
Học viên lớp Cao cấp lý luận chính trị K66.B25
"Hỡi cô
thắt giải lưng xanh
Có về Nam
Định với anh thì về"
Đò Quan bến nước thơ đề
Chầu văn mê đắm em về cho vui....
Nam Định đẹp lắm
em ơi!
Có cả sông Vị, non Côi hữu tình
Đền Trần nổi tiếng tối linh
Phủ Dầy hương khói lễ trình quanh năm
Sông Đào,
sông Đáy, sông Ninh
Dịu dàng uốn lượn bao quanh bãi bồi
Nương dâu, bãi mía mướt tươi
Bốn mùa hoa trái, nắng phơi sắc vàng
Cồn Lu, cồn
Ngạn mênh mang
Sông Hồng bồi đắp biển ngàn xanh tươi
Thịnh Long cuốn hút lòng người
Rừng thông rợp bóng, biển trời nên thơ
Gạo tám xoan,
nức hương đưa
Thoảng mùi nếp cái bên be rượu nồng
Ươm tơ, dệt vải, đúc đồng
Thêu may, chạm khắc tinh thông mọi nghề...
Nam Định ông
Cống, ông Nghè
Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, văn bia vẫn còn
Thiên Trường một thưở vàng son
Địa linh, nhân kiệt, văn chương rạng ngời...
Về với Nam Định em ơi!
Biển trời, sông núi, tình người bao la...
|