STT
|
Bài viết
|
Tác giả
|
1
|
Nghị quyết về tiếp tục nâng cao chất lượng giảng
dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại trường Chính trị Trường Chinh
|
|
2
|
Trường Chính trị Trường Chinh - 60 năm một chặng
đường
|
ThS. Phạm Thị Thanh Thủy, TUV, Giám đốc Trường
Chính trị Trường Chinh
|
3
|
Chất lượng giảng viên - nhân tố quyết định chất
lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của trường Chính trị Trường Chinh
|
ThS. Hoàng Đình Trung,
Phó Giám đốc
|
4
|
Vài suy nghĩ về người thầy giáo nhân kỷ niệm 60
năm ngày thành lập Trường
|
Trần Xuân Nam, Nhà giáo ưu tú - Nguyên Bí thư
Đảng ủy, Giám đốc
|
5
|
Tư duy đổi mới và vai trò của đồng chí Trường
Chinh đối với đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam
|
ThS. Hoàng Đức Hợp, Phó Trưởng khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh
|
6
|
Nghiên cứu khoa học động lực cho sự phát triển
của trường Chính trị Trường Chinh
|
CN. Lê Tiến Dũng, Trưởng phòng Nghiên cứu khoa
học - Thông tin - Tư liệu
|
7
|
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trẻ
trường Chính trị Trường Chinh đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong
giai đoạn hiện nay
|
ThS. Hoàng Thị Châu Yên, Trưởng phòng Tổ chức -
Hành chính - Quản trị
|
8
|
Một vài ý kiến trao đổi kinh
nghiệm về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở ở
tỉnh Nam Định
|
Trần Bùi Mịch, Giám đốc Trung tâm BDCT huyện Vụ
Bản
|
9
|
Đổi mới đánh giá kết quả học tập hệ đào tạo
Trung cấp lý luận chính trị - hành chính tại Trường Chính trị Trường Chinh
tỉnh Nam Định
|
ThS. Lê Thị Như Hoa, Trưởng phòng Đào tạo
|
10
|
Đổi mới hoạt động thư viện nhà trường
|
ThS. Cao Thị Thu Hiền, Phó Trưởng phòng Nghiên
cứu Khoa học - Thông tin - Tư liệu
|
11
|
Đổi mới nhiệm vụ nghiên cứu thực tế của học viên
Trường Chính trị Trường Chinh hiện nay
|
ThS.
Trần Thùy Dương, Phó Trưởng phòng Đào tạo
|
12
|
Tư tưởng nhân văn quân sự trong đường lối kháng
chiến chống xâm lược của Triều Trần thế kỷ XIII (1258-1288)
|
Phạm Phú Thiệm, Nguyên Trưởng khoa Xây dựng Đảng
|
13
|
Cựu chiến binh Trường Chính trị Trường Chinh với
quá trình xây dựng và phát triển nhà trường
|
CN. Nguyễn Văn Đức, Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến
binh
|
14
|
Đoàn thanh niên Trường
Chính trị Trường Chinh phát huy truyền thống “Dạy tốt, học tốt, phục vụ tốt”
|
ThS. Vũ
Quốc Mạnh, Phó Bí thư đoàn trường
|
15
|
Cán bộ nữ Trường Chính trị Trường Chinh với
phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”
|
CN. Nguyễn Thị Dung, Trưởng khoa Dân vận
|
16
|
Soạn giáo án bổ trợ nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính tại Trường
Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định
|
ThS. Nguyễn Thị Thu Hường, Trưởng khoa Nhà nước
và Pháp luật
|
17
|
Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong
triển khai hiệu quả dân chủ cấp xã
|
ThS. Trần Thị Kim Thư, Giảng viên khoa Lý luận
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
|
18
|
Một số kinh nghiệm trong giảng dạy bài “Khái
quát lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định” thuộc môn học: Tình hình, nhiệm vụ địa phương
|
ThS. Trần
Thị Huyền Nga, Giảng viên khoa Xây dựng Đảng
|
19
|
Đổi mới phương pháp nhằm nâng cao chất lượng các
môn học trong chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính
|
CN. Vũ Thị Hồng Nhung, Giảng
viên khoa Nhà nước và Pháp luật
|
20
|
Một số trao đổi về việc kết hợp các phương pháp
trong giảng dạy lý luận chính trị
|
CN. Lương Thị Dinh, Giảng viên khoa Xây
dựng Đảng
|
21
|
Nâng cao hiệu quả thảo luận ở các lớp Trung cấp
lý luận chính trị - hành chính
|
ThS. Cao Thị Hà, Phó Trưởng khoa Nhà nước và
Pháp luật
|
22
|
Cụ thể hóa quy trình hướng dẫn viết tiểu luận
cuối khóa trong chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính
|
ThS. Vũ Ngọc Hoàng, Trưởng khoa lý luận Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
|
TRƯỜNG
CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH - 60 NĂM MỘT CHẶNG ĐƯỜNG
ThS. PHẠM
THỊ THANH THỦY
TUV, Giám đốc Trường Chính trị Trường Chinh
Thực hiện Chỉ thị số 08/CT-TƯ
ngày 08 tháng 3 năm 1956 của Ban Bí thư Trung ương về việc mở Trường Đảng ở các
cấp để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng, ngay từ tháng 4 năm 1956 Ban Thường
vụ Tỉnh ủy Nam Định đã chuẩn bị phương án thành lập trường Đảng tỉnh. Tại Hội
nghị, ngày 09 tháng 6 năm 1956, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định đã ban hành
Nghị quyết số 19/NQ-TU về việc thành lập trường Đảng tỉnh. Nghị quyết đã chỉ rõ
chức năng, nhiệm vụ của Trường là: Huấn luyện cho cán bộ cơ sở, chủ yếu là Chi
ủy ở xã về: Đường lối cách mạng Việt Nam, các chính sách của Đảng và Nhà nước,
những kiến thức về lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, những hiểu biết về Đảng và công
tác xây dựng Chi bộ. Ngày 09/6/1956, đã là dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự ra đời của Trường Đảng tỉnh Nam Định - nay là
Trường Chính trị Trường Chinh.
60 năm qua, Trường Chính trị Trường
Chinh đã mang những tên gọi khác nhau: Trường Đảng tỉnh và Trường Hành chính
tỉnh (1956-1964); trường Đảng tỉnh Nam Hà (1965-1975); Trường Đảng tỉnh Hà Nam
Ninh (1976-1992); Trường đào tạo cán bộ tỉnh Nam Hà (1993-1995); Trường Chính
trị tỉnh Nam Hà (1995-1997); Trường Chính trị tỉnh Nam Định (1997-1998); Trường
Chính trị Trường Chinh (1999 đến nay) nhưng dù dưới tên gọi nào, Trường vẫn
luôn là địa chỉ tin cậy trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cho
tỉnh nhà, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chính trị đặt ra trong mỗi thời
kỳ cách mạng. Các thế hệ cán bộ, giảng viên, nhân viên không ngừng cố gắng
chung sức viết thêm bề dày thành tích của nhà trường.
Từ khi thành lập đến nay, hoạt
động dạy, học và các hoạt động khác, nhà trường luôn triển khai đồng bộ theo Kế
hoạch của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của địa
phương:
Thứ nhất, về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Nếu ngày đầu mới thành lập, Trường
chỉ có khoảng 60 học viên thì kể từ khi tái lập
tỉnh đến nay, nhà trường đào tạo 137 lớp Trung cấp lý luận chính trị và chính
trị - hành chính, 07 lớp Trung cấp Pháp luật. Bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước cho 51 lớp Chuyên viên, 03 lớp Chuyên viên chính, 05 lớp Tiền
công vụ và các chương trình bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, bồi
dưỡng chức danh Bí thư, Phó Bí thư và nhiều chương trình khác. Phối hợp với Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị khu vực I đào tạo 11
khóa Cao cấp lý luận chính trị và lý luận chính trị - hành chính, 03 khóa Cử
nhân chính trị. Phối hợp với Học viện Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đào tạo
03 khóa Cử nhân hành chính…
Tính riêng năm 2015, nhà trường
đã trực tiếp giảng dạy và phục vụ giảng dạy cho 71 lớp với 7.068 học viên (hoàn
thành vượt 140,4% kế hoạch tỉnh giao).
Trong năm học
2015-2016, nhà trường tổ chức Hội thi “Học
viên học giỏi lý luận chính trị lần thứ Nhất” giữa học viên các lớp đào tạo
Trung cấp lý luận chính trị - hành chính. Nhà trường xác định Hội thi là một
kênh đánh giá chất lượng dạy và học của nhà trường. Với những kết quả đạt được,
nhà trường đã góp phần chuẩn hóa đội ngũ cán bộ tỉnh nhà theo tinh thần Nghị
quyết số 08/NQ-TU ngày 06/8/2007 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XVII về
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ 2007 - 2015 và những năm tiếp
theo, nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu đặt ra tại Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ XIX.
Thứ hai, công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế
Những năm qua, công tác nghiên
cứu khoa học trong nhà trường có bước đổi mới rõ rệt. Tính từ năm 1997 đến nay,
nhà trường đã thực hiện 04 đề tài khoa học cấp tỉnh, trong đó có 01 đề tài xếp
loại Xuất sắc, 04 đề tài xếp loại Khá. Năm 2016, các đơn vị đang triển khai
thực hiện 07 đề
tài nghiên cứu khoa học cấp trường, cấp khoa. Các hoạt động nghiên cứu khoa học
khác như: Hội thảo, sinh hoạt chuyên môn, tọa đàm, viết bài cho các tạp chí
chuyên ngành, trang thông tin điện tử của nhà trường được các đơn vị khoa phòng,
cán bộ, giảng viên, nhân viên duy trì khá đều đặn.
Nhằm đảm bảo lý luận gắn liền với thực tiễn, học đi
đôi với hành nhà trường luôn coi trọng công tác nghiên cứu thực tế: 100% đồng chí giảng viên
hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu thực tế. Đổi mới hình thức nghiên cứu thực tế
của học viên các lớp đào tạo. Trong quá trình tổ chức các hoạt động: giảng dạy,
quản lý, phục vụ, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế… các đồng chí cán bộ,
giảng viên đều nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn chấp hành
và thực hiện nghiêm túc nội dung, chương trình, quy chế đào tạo của Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục - Đào tạo và hệ thống Quy chế của
nhà trường.
Thứ ba, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ cho đội ngũ
Xác định con
người là chủ thể, là nhân tố trung tâm của sự phát triển, những năm qua nhà
trường rất coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ. Tính đến tháng 5 năm
2016, nhà trường có 52 cán bộ, giảng viên, nhân
viên trong đó: Tiến sỹ 01 đồng chí
(chiếm 0,19%); Thạc sỹ 20/52 đồng chí (38,46%); Nghiên cứu sinh 02/52 đồng chí
(3,84%); Cử nhân, cao cấp 28/52 đồng chí (53,84%); 03 đồng chí đang học Cao học
(5,76%); Giảng viên 39/52 đồng chí (75%) (trong đó giảng viên kiêm nhiệm là 13 đồng
chí; tuổi nghề bình quân là 11,5 năm).
Thứ tư, công tác xây dựng Đảng và các tổ
chức chính trị - xã hội
Nhà trường luôn chú trọng công tác xây
dựng Đảng. Đảng bộ, các chi bộ giữ vững
vai trò là hạt nhân chính trị, lãnh đạo mọi mặt hoạt động của cơ quan. Nhiều
năm liên tục, Đảng bộ nhà trường được công nhận là Đảng bộ trong sạch, vững
mạnh tiêu biểu. Nhiệm kì 2015-2020, Đảng bộ nhà trường vinh dự được Đảng bộ
khối các cơ quan tỉnh lựa chọn là đơn vị Đại hội điểm. Đại hội tổ chức thành
công và bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ nhà trường khóa VIII gồm 09 đồng chí và 03
đồng chí trong Ban Thường vụ Đảng ủy. Ngay năm đầu nhiệm kì, Đảng bộ nhà trường
đã ban hành Nghị quyết số 06- NQ/ĐU
ngày 24 tháng 3 năm 2016 “Về tiếp tục
nâng cao chất lượng giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại Trường
Chính trị Trường Chinh”; tích cực
tuyên truyền và thực hiện các hoạt động chuẩn bị cho bầu cử đại biểu Quốc Hội
khóa XIV và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.
Cùng với công tác xây dựng Đảng, các tổ
chức chính trị - xã hội cũng không ngừng được chăm lo và củng cố, nội dung và
phương thức hoạt động từng bước được đổi mới, đa dạng, linh hoạt phù hợp với
điều kiện thực tiễn của đơn vị. Phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt, quản lý
và phục vụ tốt”, hội giảng cấp khoa, cấp trường, cấp Học viện, dự giờ... được
toàn thể cán bộ, viên chức nhà trường nhiệt tình hưởng ứng.
Thứ năm, về cơ sở vật chất
Cùng với sự trưởng thành của nhà
trường, Tỉnh ủy, HĐND-UBND tỉnh đã quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất. Ban đầu,
trường được tiếp quản khu nhà lá, nơi làm việc tạm thời của Đoàn cải cách ruộng
đất Tỉnh ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân trường (thuộc khu vực
Trường phổ thông Xuân Trường hiện nay), nay Trường đã có trụ sở tương đối khang
trang với khuôn viên rộng gần 1ha. Trong đó có: 1 hội trường lớn, 4 nhà 3 tầng
và 1 nhà câu lạc bộ. Trang thiết bị phục vụ dạy và học: 01 phòng máy vi tính;
04 máy tính xách tay; 08 máy chiếu gắn tại các hội trường; 02 hội trường lắp
đặt điều hoà nhiệt độ và camera (Hội trường I, II và khu vực nhà để xe học viên
phía sau Hội trường I); 100% giảng viên được trang bị máy tính cố định. Nhà làm
việc của cán bộ, giảng viên (Khu A), nhà ở học viên (Khu B, khu C) đã được nâng
cấp, cải tạo, cảnh quan nhà trường được cải thiện đáng kể.
Tuy vậy, hệ thống cơ
sở vật chất hiện có của nhà trường vẫn còn khá khiêm tốn so với các trường
trong khu vực và so với nhiệm vụ chính trị của một trường đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ của tỉnh.
Với những thành tích đã đạt được
qua 60 năm không ngừng nỗ lực phấn đấu, Trường Chính trị Trường Chinh đã được
Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba (năm 1998), hạng Nhì (năm
2001), hạng Nhất (năm 2006); Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ (năm 2004); 6 Cờ
thi đua xuất sắc của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh; Cờ của Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam; Cờ của Công đoàn Viên chức Việt Nam; nhiều Bằng khen của UBND tỉnh, của
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Cá nhân: 03 đồng chí được tặng
thưởng Huân chương Lao động hạng Ba; 11 đồng chí được tặng Bằng khen của Thủ
tướng Chính phủ; nhiều đồng chí đạt danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh”, Bằng
khen của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và của UBND tỉnh;
09 đồng chí được tặng huy hiệu 30 năm tuổi Đảng; 43 đồng chí được tặng Kỷ niệm
chương “Vì sự nghiệp giáo dục” và Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp xây dựng và phát
triển của Học viện” cùng nhiều danh hiệu thi đua khác.
Nhìn lại chặng đường 60 năm, mặc
dù có nhiều cố gắng và đạt những thành tích quan trọng, nhưng nhà trường cũng
nhận thấy còn có những tồn tại cần khắc phục: Nội dung đào tạo, bồi dưỡng chưa
trang bị đầy đủ cho học viên năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn. Đổi mới
phương pháp giảng dạy chưa thật đồng bộ. Một số giảng viên kiến thức thực tiễn
trong bài giảng còn chưa đáp ứng được yêu cầu của người học. Công tác quản sinh
có lớp, có lúc chưa thật sự chặt chẽ.
Tại buổi Kỷ niệm 59 năm ngày
thành lập Trường (9/6/1956-9/6/2015), đồng chí Bạch Ngọc Chiến - Ủy viên Ban
Chấp hành Đảng bộ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh khẳng định: “Trải qua 59 năm xây dựng và trưởng thành, nhà trường đã đào tạo, bồi dưỡng
cho tỉnh hàng vạn cán bộ đạt trình độ sơ cấp, trung cấp. Đội ngũ cán bộ được đào
tạo, bồi dưỡng tại trường đã được trang bị có hệ thống lý luận Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước; nghiệp vụ và kỹ năng công tác Đảng, công tác đoàn thể. Thực tiễn đã
chứng minh, đội ngũ cán bộ được đào tạo tại trường thường xuyên giữ bản lĩnh
chính trị vững vàng, có năng lực chuyên môn, năng lực thực tiễn hoàn thành
nhiệm vụ được giao, góp phần vào sự phát triển của tỉnh qua các thời kỳ cách
mạng… Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh và nhân dân toàn tỉnh ghi nhận, đánh giá cao
thành tích và những đóng góp của nhà trường cho sự nghiệp đào tạo nguồn nhân
lực cán bộ cho tỉnh; góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng và công tác xây dựng Đảng. Tôi mong rằng trong thời gian tới, nhà trường
tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng quê hương Nam Định ngày càng
giầu đẹp, văn minh”.
Quán triệt sự chỉ đạo đó, trên
tinh thần phát huy thành tích, khắc phục, giải quyết những tồn tại hạn chế,
trong những năm tới nhà trường cần tiến hành đồng bộ một số nhiệm vụ trọng tâm
sau:
Thứ nhất, Tiếp tục tham mưu với tỉnh trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ góp phần chuẩn hóa đội ngũ, góp phần thực hiện mục tiêu đến năm
2020 Nam Định là tỉnh nông thôn mới, đáp ứng nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH nói chung và sự phát triển của tỉnh Nam Định nói riêng.
Thứ hai, Nâng cao chất lượng toàn diện
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, quán triệt nghiêm túc việc thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/ĐU ngày 24 tháng 3 năm
2016 của Đảng bộ nhà trường “Về tiếp tục
nâng cao chất lượng giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại Trường
Chính trị Trường Chinh”; mở rộng quy mô, đa dạng hoá các loại
hình đào tạo, bồi dưỡng; tập trung thực hiện chương trình bồi dưỡng cán bộ theo
chức danh, cán bộ nguồn.
Thứ ba, Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng
viên đủ về số lượng, cơ cấu hợp lý, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức tốt, tác phong mẫu mực trong sinh hoạt, trình độ chuyên môn cao, phương
pháp công tác và giảng dạy tốt, kiến thức thực tiễn phong phú, tâm huyết với
nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong thời
kỳ mới. Trong đó, chú trọng việc tham mưu với Tỉnh thực hiện Đề án luân chuyển
giảng viên đi thực tế có thời hạn ở cơ sở nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên - lực lượng nòng cốt của nhà trường.
Thứ tư, Tiếp tục phát huy sự đoàn kết, thống nhất,
xây dựng Đảng bộ và các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh. Tăng cường, mở
rộng mối quan hệ giữa nhà trường với các sở, ban, ngành, địa phương trong tỉnh
và các Trường Chính trị trong Cụm thi đua và cả nước.
Thứ
năm, Sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất hiện có của nhà trường.
Tăng cường xây dựng theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hoá cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ dạy và học đúng với tinh thần Nghị quyết 22 của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII.
Nhìn lại
chặng đường lịch sử vinh quang,
vừa giảng dạy, vừa xây dựng trong 60 năm qua, mỗi cán bộ, giảng viên, nhân viên
qua các thời kì tràn đầy niềm tự hào, phấn khởi và tin tưởng vào sự phát triển
bền vững của nhà
trường. Thế hệ
trước đã làm tròn nhiệm vụ, đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên hôm nay, với
quyết tâm chính trị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, viết tiếp trang sử truyền
thống của nhà trường xứng đáng với tên gọi: Trường Chính trị Trường Chinh./.
CHẤT LƯỢNG
GIẢNG VIÊN - NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH
CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
CỦA TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH
ThS. HOÀNG ĐÌNH TRUNG
Phó Giám đốc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “cán bộ cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc
gốc của Đảng”. Người gọi người giảng
viên thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là “người huấn luyện”. Trong
tư tưởng của Người, nhiệm vụ của người giảng viên trong giảng dạy là giúp người
học hiểu và vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác, tư tưởng quan điểm của Đảng để phục
vụ tốt hơn cho sự nghiệp cách mạng, trong công tác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quá trình giảng dạy, ngoài trang bị lý luận chính trị, người giảng viên phải
biết gắn lý luận với thực tế, bám sát tình hình thực tiễn để người học hiểu và
nắm chắc lý luận, biết vận dụng lý luận vào thực tiễn công việc. Có thể khẳng
định trong bất cứ thời điểm nào, chất lượng giảng viên là một trong những yếu
tố quan trọng nhất đối với chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Kết luận số 117-KL/TW ngày
20/11/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng tại
các trường Chính trị, thành phố trực thuộc
Trung ương đã chỉ rõ hạn chế: một số bộ
phận giảng viên trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức thực tiễn còn nhiều
bất cập. Để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng tại các trường
chính trị góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đặt ra yêu cầu phải
tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của các trường Chính trị.
Trong những
năm qua, Đảng ủy, Ban Giám đốc trường Chính trị Trường Chinh luôn quan tâm tới
nhiệm vụ xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Tính đến năm 2015, tổng số giảng viên
của nhà trường là 39 đồng chí (trong đó có 13 giảng viên kiêm chức) chiếm 75%
so với tổng số cán bộ, công chức, viên chức. Về trình độ chuyên môn và trình độ
lý luận chính trị: 39/39 giảng viên có trình độ đại học (chiếm 100%), trong đó
tiến sỹ có 01 đồng chí (chiếm 0,02%), 02 đồng chí đang học nghiên cứu sinh, 02
đồng chí đang học cao học (chuẩn bị bảo vệ luận án, luận văn), 21 đồng chí có
bằng thạc sỹ (chiếm 54%), 24 đồng chí có trình độ cử nhân, cao cấp lý luận
chính trị (chiếm 62%).
Số liệu trên cho thấy chất lượng
của đội ngũ giảng viên về cơ bản đáp ứng trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình
độ lý luận chính trị, đó là điều kiện thuận lợi để nhà trường hoàn thành tốt
nhiệm vụ được Tỉnh ủy và UBND tỉnh giao hàng năm.
Thời gian qua, cùng với việc tích
cực cử giảng viên đi đào tạo sau đại học, đào tạo cao cấp lý luận chính trị -
hành chính, tăng cường bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, nhà trường đã thực
hiện nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học
của đội ngũ giảng viên, cụ thể:
Hàng năm, nhà trường đã tổ chức
có nề nếp hoạt động thao giảng cấp khoa, chọn cử giảng viên tham gia hội thi
giảng viên dạy giỏi cấp trường và cấp Học viện. Qua đó, đánh giá toàn diện chất
lượng đội ngũ giảng viên.
Về công tác nghiên cứu khoa học,
nhiều giảng viên đã tham gia các đề tài cấp khoa, cấp trường và cấp tỉnh, với
tâm huyết, sự say mê và trách nhiệm cao. Vì vậy, kết quả đánh giá nghiệm thu đề
tài các cấp hàng năm đều đạt từ khá trở lên. Nhiều giảng viên đã tích cực viết
bài đăng tạp trí khoa học của Trung ương, địa phương và nội san, trang thông
tin điện tử của nhà trường. Chất lượng bài viết ngày được nâng cao, có chiều
sâu, bảo đảm gắn với chuyên môn được đào tạo và nội dung giảng dạy của giảng
viên.
Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu
ngày càng cao của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh theo tinh thần
Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghị quyết lần thứ XIX (nhiệm kỳ 2015 - 2020) đã xác định
phải: “Tăng cường công tác giáo dục lý
luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, chú ý các kỹ năng vận dụng vào thực tiễn
ở cơ sở” đội ngũ giảng viên của trường bộc lộ không ít mặt hạn chế. Đặc
biệt, phương châm lý luận liên hệ với thực tiễn. Một bộ phận giảng viên còn
thiếu kiến thức thực tế, bài giảng nặng về lý luận. Hoạt động nghiên cứu khoa
học, nghiên cứu thực tế hiệu quả chưa cao. Một số giảng viên còn thiếu chủ động
trong xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học và nghiên cứu thực tế, thiếu kiến
thức thực tế để bổ sung vào bài giảng, xây dựng bài tập tình huống và tổ chức
thảo luận…
Phương pháp giảng dạy chậm được
đổi mới, việc sử dụng phương pháp giảng hiện đại và phương tiện hỗ trợ (máy
tính, máy chiếu….) còn chưa phù hợp, nhiều khi bị lạm dụng theo kiểu “giảng viên chiếu, học viên ghi”. Phương
pháp thuyết trình vẫn là phương pháp được sử dụng chủ yếu, phương pháp dạy -
học tích cực chưa được quan tâm, thực hiện có hiệu quả.
Nguyên nhân chủ yếu là do phần
lớn giảng viên của nhà trường hiện nay có tuổi đời còn trẻ và tuổi nghề ít. Từ
những năm 2010 trở về trước, đội ngũ giảng viên của nhà trường được nghỉ chế độ
nhiều (năm 2013 có 10 đồng chí). Đây là đội ngũ giảng viên được đào tạo và
nhiều đồng chí trải qua quân ngũ hoặc các lĩnh vực công tác khác nhau nên có
hiểu biết và kinh nghiệm thực tiễn phong phú. Thay thế là đội ngũ giảng viên
sau khi tốt nghiệp các trường Đại học, các Học viện được tuyển dụng làm giảng
viên giảng dạy.
Mặt khác, hoạt động chuyên môn
theo chuyên đề ở các khoa chưa được thực hiện thường xuyên, đồng thời do thiếu
sự kiểm tra, giám sát nên chất lượng thấp. Việc đánh giá chất lượng bài giảng của
giảng viên thông qua thao giảng, dự giờ và lấy phiếu đánh giá từ học viên chưa
thực sự khoa học, dẫn đến tâm lý chủ quan, tư tưởng “thỏa mãn” của một bộ phận
giảng viên, ngay cả giảng viên trẻ của nhà trường.
Tiếp tục nâng cao chất lượng đội
ngũ giảng viên đáp ứng yêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ có tính cấp
thiết. Để thực hiện được yêu cầu đó, nhà trường cần thực hiện một số nội dung
sau:
Thứ nhất,
nâng cao ý thức trách nhiệm của giảng viên và các khoa chuyên môn trong việc
đổi mới nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Trong công tác soạn giảng, giảng viên phải bảo đảm
yêu cầu bám sát nội dung của giáo trình. Đồng thời, còn phải bám sát thực tiễn
của thế giới, đất nước và đặc biệt là của tỉnh, của cơ sở. Giảng viên phải chủ
động xây dựng chủ đề, kế hoạch nghiên cứu thực tế hàng năm để cập nhật, lượm
nhặt thông tin và biết chắt lọc thông tin một cách chính xác, đầy đủ, mang tính
thời sự vào các bài giảng. Đây là một nhiệm vụ khó khăn, buộc các giảng viên
phải cần cù, chịu khó và bỏ nhiều công sức khi soạn giáo án.
- Mỗi giảng viên cần chủ động và quyết tâm trong việc
tiếp cận một cách khoa học về phương pháp giảng dạy tích cực, nghiên cứu để vận
dụng linh hoạt trong từng bài giảng phù hợp với nội dung và đối tượng học viên.
Đặc biệt, là các phương pháp thảo nhóm, phương pháp đóng vai, phương pháp lấy ý
kiến ghi lên bảng, đây là những phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học
làm trung tâm, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, phù hợp với
giảng dạy lý luận chính trị của nhà trường.
- Các khoa chuyên môn phải nâng cao chất lượng chuyên
môn, quản lý chuyên môn đối với giảng viên thông qua các hoạt động như: duy trì
nghiêm túc, có hiệu quả sinh hoạt chuyên môn theo tháng với các chuyên đề cụ
thể; đổi mới hoạt động duyệt giáo án, thông qua bài; xây dựng giáo án mẫu và
giáo án bổ trợ; đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động thao giảng cấp khoa; phải
tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm về chuyên môn, phương pháp giảng dạy giúp
giảng viên sửa đổi, bổ sung kiến thức và những hạn chế trong bài giảng.
Thứ hai, tăng
cường hoạt động lãnh đạo, quản lý của Ban Giám đốc đối với khoa chuyên môn.
- Xây dựng quy định về hoạt động sinh hoạt chuyên môn
theo tháng đối với các khoa. Hàng quý hoặc 6 tháng tổ chức Hội nghị chuyên môn
toàn trường, có kế hoạch trước cho từng khoa, phòng chuẩn bị về nội dung bảo
đảm hội nghị đạt hiệu quả cao.
- Nghiên cứu xây dựng và tăng cường hoạt động Ban
Thanh tra giáo dục (tổ thanh tra giáo dục). Xây dựng và thực hiện kế hoạch
thanh tra quá trình soạn giáo án, duyệt và thông qua giáo án. Tăng cường kiểm
tra đối với hoạt động giảng dạy trên lớp của giảng viên theo kế hoạch hoặc đột
xuất. Sau thanh tra phải tổ chức đánh giá, kết luận kết quả, đồng thời có thông
báo kịp thời đến Ban Giám đốc và lãnh đạo khoa chuyên môn để chấn chỉnh những
thiếu sót đối với từng giảng viên.
- Tiếp tục nghiên cứu đổi mới công tác quản lý hoạt
động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế của giảng viên. Hàng năm, phòng
Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu thống kê kết quả nghiên cứu khoa học,
tổng kết thực tiễn và viết bài nội san của từng giảng viên mỗi khoa, coi đây là
một trong những căn cứ đánh giá, phân loại chất lượng công chức, viên chức
trong năm./.
VÀI SUY NGHĨ VỀ NGƯỜI THẦY GIÁO
NHÂN DỊP KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP
TRƯỜNG
TRẦN XUÂN NAM
Nhà
giáo ưu tú - Nguyên Bí thư Đảng ủy, Giám đốc
Mỗi người chúng ta sinh ra từ một mái ấm gia đình, lớn
lên, trưởng thành từ mái trường. “Tôn sư trọng đạo” đó là truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ta từ ngàn xưa. Trong quá trình trưởng thành của mỗi người đều
không thể thiếu được sự giáo dục của những người thầy: “Nên thợ, nên thầy vì có
học”. Chúng ta trên cương vị nhà giáo lại càng hiểu rõ hơn sự nghiệp “trồng
người” là trách nhiệm của toàn xã hội đồng thời đó là nhiệm vụ của đội ngũ các
nhà giáo nói chung và giảng viên của các trường Chính trị nói riêng.
Trong xã hội hiện nay, nghề giáo là
một nghề vẫn được xã hội tôn kính, trân trọng. Câu “Nhất tự vi sư, bán tự vi
sư” vẫn được mọi người ghi nhớ và tôn trọng. Để giữ gìn truyền thống đạo đức
tốt đẹp của dân tộc, để nghề giáo vẫn luôn giữ được vị trí, vai trò của mình
trong đời sống xã hội thì bản thân mỗi người thầy phải tự rèn luyện mình cho
xứng đáng với vị trí, vai trò của người thầy. Bởi vì muốn người khác tôn trọng
mình trước tiên bản thân mình phải đáng được tôn trọng.
Trong lịch sử giáo dục của dân tộc
ta, vẫn lưu danh tên tuổi của các nhà giáo nổi tiếng, học vấn uyên thâm, đạo
đức trong sáng có đóng góp to lớn trong sự nghiệp giáo dục của dân tộc như nhà
giáo: Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn…Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng từng làm nghề dạy học. Thầy giáo Nguyễn Tất Thành - thầy vừa dạy kiến thức
văn hóa, vừa khơi dậy trong các em lòng yêu nước thương dân, căm thù thực dân
phong kiến. Người đã dìu dắt dân tộc Việt Nam ta đấu tranh giành độc lập dân
tộc, xây dựng CNXH. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ
biên giới, nhiều nhà giáo đã xếp bút nghiên, giáo án lên đường đáng giặc, trong
đó có một số thầy giáo đã anh dũng hy sinh cho Tổ quốc, một số trở thành cán bộ
cao cấp của quân đội, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân…Như vậy có thể nói,
với truyền thống đạo đức, phẩm chất tốt đẹp của người thầy, ở lĩnh vực nào
người thầy cũng luôn phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, là tấm gương sáng
cho mọi người noi theo. Người thầy không chỉ dạy chữ, kiến thức mà còn dạy cho
học trò biết làm người. Thật xúc động và tự hào khi đọc vần thơ của một em học
sinh nói về thầy:
“ Trang trời xanh thắm hôm
nay
Phấn xưa đã kết thành mây
trắng đều
Sông đời bất chợt nông sâu
Học thầy em bắc chiếc cầu chữ
Tâm”
“Chữ Tâm” ở thầy đó là lòng nhân từ,
rộng lượng, vị tha mà người thầy nào cũng có thể tận tình chăm lo, giáo dục cho
học sinh của mình. Học trò đến với thầy không chỉ để học chữ mà còn học đạo
đức, phong cách, lối sống để tu dưỡng, phấn đấu trở thành người tốt, có ích cho
xã hội. “ Tiên học lễ, hậu học văn”.
Để xứng đáng với sự tôn kính của học
sinh và xã hội, người thầy phải nỗ lực phấn đấu tự rèn luyện mình để có chuyên
môn giỏi, phương pháp sư phạm tốt, có tác phong mô phạm. Đó là cả một quá trình
phấn đấu gian khổ. Như A-lếch-xan-đrô-vích
Sô-lô-khốp, nhà giáo dục học nổi tiếng của Liên Xô trước đây đã nói: “Trên đời này không có việc nào vất vả như
lao động của các nhà giáo dục, người thầy cũng là một con người, cũng có gia
đình, con cái, cũng có những lo lắng buồn phiền riêng của mình. Nhưng khi bước
vào lớp, người thầy phải bắt mình quên đi mọi tai họa vết thương lòng riêng tư
để hướng mọi suy nghĩ theo đúng dòng tư tưởng mà nghĩa vụ nhà giáo yêu cầu.
Xong bạn chớ nghĩ rằng đó là sự hy sinh tự nguyện, là sự phó thân cho số mệnh”.
“Nếu như người thầy quả thực là người sáng
tạo ra con người thì sẽ thấy lao động đó chính là hạnh phúc của cuộc đời mình.
Nếu bạn thờ ơ với người thầy giáo, nếu bạn không hiểu hết mức độ phức tạp trong
công việc của thầy, bạn sẽ là kẻ liều lĩnh, hoang phí một trong những giá trị
vĩ đại nhất của nhân loại”.
Nghề
giáo là nghề rất quan trọng và vẻ vang. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh
giá: “Thầy giáo giữ vai trò quyết định
trong nghề giáo. Bởi không có thầy giáo thì không có giáo dục. Nếu không có
thầy giáo dạy giỗ cho con em nhân dân thì làm sao mà xây dựng Chủ nghĩa xã hội
cho được?” Vì vậy, phải xây dựng được đội ngũ những người thầy tốt. Fa-ra-tôn
nhà triết học cổ Hy Lạp nói: “Không ai có
thể làm cho con người thông minh ngoài con người thông minh; không ai có thể
làm cho con nguời có đạo đức ngoài kẻ có đạo đức. Nếu nhà giáo dốt nát, kẻ lãnh
đạo tiêu cực đối với người khác, là cái bóng không hồn, là đám mây không mang
mưa, là dòng suối khô cạn, là ngọn đèn không ánh sáng và đương nhiên đó là sự
trống rỗng. Nếu một người thợ giầy tồi thì quốc gia cũng không phải quá lo
lắng, dân chúng sẽ phải đi những đôi giầy kém một chút. Nhưng nếu thầy giáo dốt
nát thì đất nước sẽ xuất hiện cả một thế hệ kém cỏi, xấu xa. Nghề giáo là một
nghề đặc biệt không được có “thứ phẩm” vì: Nếu người thợ kim hoàn làm hỏng một
đồ vàng thì anh ta có thể nấu lại. Nhưng làm hư hỏng một con người thì đó là
một tội lớn, một lỗi lầm lớn không thể nào chuộc được”.
Trường
Đảng tỉnh, Trường Hành chính tỉnh nay là Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh nằm
trong hệ thống các trường Chính trị cấp tỉnh trong cả nước. Trường có chức
năng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở cho tỉnh, đạt trình độ Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính và các trung cấp chuyên nghiệp khác được Bộ Giáo
dục - Đào tạo cho phép, phối hợp với Học viện, trường Đại học mở các lớp đào
tạo chuyên ngành khác theo yêu cầu của tỉnh. Đối tượng học viên của nhà trường là
cán bộ đương chức và dự nguồn của địa phương đang tham gia công tác ở cơ sở, có
kinh nghiệm thực tiễn, có kiến thức nhất định. Vì vậy, đòi hỏi đội ngũ giảng
viên của nhà trường phải luôn tu dưỡng, học tập rèn luyện phẩm chất đạo đức,
năng lực người cán bộ, giảng viên chính trị của Đảng. Có phẩm chất và đạo đức
chính trị vững vàng, có kiến thức chuyên môn sâu sắc, vốn sống thực tiễn phong
phú, được đào tạo có hệ thống để đem đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ, phương
pháp công tác, biết cách làm việc, biết cách vận động nhân dân, biết cách xử lý
tình huống khác với các trường phổ thông, kiến thức mà giảng viên giảng dạy cho
học viên không chỉ nằm trong sách vở mà phải được chuyển hóa ngay vào thực tiễn
cuộc sống. Nhằm nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và thúc đẩy hành động cách
mạng của quần chúng, tạo ra phong trào cách mạng sâu rộng trong nhân dân.
60
năm, một chặng đường phấn đấu đầy khó khăn gian khổ nhưng cũng vô cùng vẻ vang
của nhà trường. Từ chỗ đội ngũ cán bộ, giảng viên của nhà trường chỉ có 19 đồng
chí (trong đó có 12 người ở bộ phận nội dung) được tuyển chọn từ các ban ngành
của tỉnh với khu nhà lá đơn sơ tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân
Trường. Đến nay bộ máy nhà trường có đầy đủ Ban Giám đốc, 04 khoa, 03 phòng với
số lượng gần 60 người (trong đó giảng viên gần 40 đồng chí). Từ chỗ đội ngũ
giảng dạy hầu hết chỉ có trình độ trung cấp, đến nay 100% có trình độ đại học.
Gần 40 % có trình độ Thạc sỹ, 02 Nghiên cứu sinh, có 01 Tiến sỹ. Cơ sở vật chất
ngày càng khang trang hiện đại. Nhà trường từ chỗ chỉ làm công tác bồi dưỡng
ngắn ngày, đến nay đã mở được nhiều chuyên ngành đào tạo. 60 năm qua, nhà
trường đã bồi dưỡng, đào tạo hàng vạn cán bộ các cấp cho tỉnh, góp phần quan
trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Trong
công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, với sự tác động của kinh tế thị trường đã
có tác động không nhỏ tới đạo đức nói chung và đạo đức của người thầy nói
riêng. Vì vậy, mỗi người thầy nói chung, giảng viên của trường Chính trị nói
riêng phải luôn trau dồi, hoàn thiện bản thân, có đạo đức và trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cao để đáp ứng được những đòi hỏi và kỳ vọng của xã hội, tiếp
nối truyền thống đạo đức cao đẹp của người thầy.
60
năm qua, các thế hệ cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng tại trường đã trưởng thành,
nhiều đồng chí đã trở thành cán bộ chủ chốt của tỉnh, của một số ngành ở Trung
ương và địa phương, góp phần cho sự phát triển của địa phương, của tỉnh, sự đổi
thay, sự giàu mạnh của đất nước.
Tự
hào và đáng kính biết bao, các thế hệ cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà trường
luôn nêu cao tấm gương sáng của tinh thần “Vì học viên thân yêu” . Đội ngũ cán
bộ, giảng viên của nhà trường được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau, một số
đồng chí là giảng viên của các trường đại học, học viện, các trường sỹ quan của
quân đội về trường nhưng vẫn luôn tận tụy với nghề nghiệp, với học viên, gắn bó
với nhà trường. Trường Chính trị của tỉnh là một loại hình trường đặc biệt đúng
như lời của của Nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Khánh đã nhận xét. Càng
đặc biệt hơn nữa, hiếm có trường nào lại có số lượng Cựu chiến binh nhiều như ở
Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định. Chỉ tính từ khi sát nhập hai
trường từ tháng 10/1993 đến nay có 30 đồng
chí đã và đang công tác tại trường trong đó hầu hết là giảng viên. Có giai đoạn
trong Ban Giám đốc 100% là cựu chiến binh, sỹ quan quân đội. Đảng ủy, khoa Xây
dựng Đảng, phòng Đào tạo có 2/3 (66,66%) là cựu chiến binh. Đó là các cựu chiến
binh ở tất cả các quân binh chủng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, có mặt ở
hầu hết các chiến trường từ Lào, Campuchia, có đồng chí ở tận “miền Đông gian
lao mà anh dũng”, có đồng chí ở vùng rừng núi Tây Nguyên bất khuất đến thành cổ
Quảng Trị - một thời hoa lửa… đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trở về với nhà trường. Dù công tác ở bộ phận nào, các đồng chí cũng đều phát
huy tốt truyền thống của ‘anh bộ đội cụ
Hồ’, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhiều đồng chí trở thành cán bộ chủ chốt
của trường. Vượt lên hoàn cảnh, không ngại khó khăn vất vả, nhiều đồng chí đã
cống hiến cả tài năng và sức lực, nhiều thầy cô đã gắn bó suốt cả cuộc đời với
nhà trường.
Lịch sử là một dòng chảy liên tục,
tự hào với những kết quả mà các thế hệ cán bộ giảng viên, nhân viên nhà trường
đã đạt được trong 60 năm qua, với truyền thống và tiềm năng sẵn có, chúng ta
tin tưởng rằng đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà trường hôm nay sẽ vuơn
lên một tầm cao mới, viết tiếp những trang sử vẻ vang và sẽ hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ, xứng đáng với tên gọi Trường Chính trị Trường Chinh./.
TƯ DUY ĐỔI MỚI VÀ VAI
TRÒ CỦA ĐỒNG CHÍ TRƯỜNG CHINH ĐỐI VỚI ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN ĐẤT NƯỚC CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ThS. Hoàng Đức Hợp
Phó Trưởng khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Đồng chí Trường Chinh, một chiến sĩ cách
mạng tiền bối của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà lãnh đạo lỗi lạc của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta, là học trò ưu tú và người cộng sự gần gũi của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đồng chí đã có những đóng góp xuất sắc, quan trọng cho cách mạng Việt
Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc và giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
phát triển đất nước.
Đồng chí Trường Chinh tên thật là Đặng
Xuân Khu, sinh ngày 9-2-1907 tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân
Trường, tỉnh Nam Định trong một gia đình có truyền thống khoa bảng yêu nước.
Quê hương Hành Thiện, Xuân Trường - nơi
sinh thành và nuôi dưỡng đồng chí Trường Chinh, thời phong kiến cùng với Cổ Am
xứ Đông đã nổi tiếng nhất nước về truyền thống học hành và sự đỗ đạt. “Đông Cổ
Am, Nam Hành Thiện” là câu ca của người xưa thể hiện sự khâm phục, ngưỡng mộ
vùng đất “trai học hành, gái canh cửi”.
Truyền thống của quê hương, gia đình đã
góp phần hình thành và nuôi dưỡng nhân cách, tình cảm, trí tuệ cách mạng của
đồng chí Trường Chinh.
Trong quá trình hoạt động cách mạng,
đồng chí Trường Chinh đã trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau, giữ nhiều
trọng trách của Đảng và Nhà nước. Năm 1951: là Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam.
Năm 1981: Được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng nhà nước và Chủ tịch Hội đồng
quốc phòng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tháng 7 - 1986, tại Hội nghị
đặc biệt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được bầu làm Tổng Bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 12 -1986: Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng, đồng chí được cử làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam, phó trưởng ban soạn thảo Cương lĩnh và chiến lược kinh tế, kiêm
trưởng ban soạn thảo cương lĩnh của Đảng.
Trong khi đất nước lâm vào khủng hoảng
kinh tế - xã hội, đồng chí Trường Chinh với trách nhiệm Tổng Bí thư đã cùng Ban
Chấp hành Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng VI - Đại hội “đánh dấu sự đổi mới
quan trọng của Đảng trong lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức và có ý nghĩa to
lớn, tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết, thống nhất của toàn Đảng, toàn dân.”
Đồng chí Trường Chinh - là người kiến
trúc sư thiết kế và lát những viên gạch đầu tiên cho đường lối đổi mới toàn
diện, đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách trước sự đổ vỡ của hệ thống
xã hội chủ nghĩa, đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng và
khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI đề ra.
Nói tới “đổi mới” ở Việt Nam, người ta
thường hay dừng lại ở thời điểm Đại hội Đảng VI. Thật ra, Đại hội Đảng VI chỉ
là cái mốc lịch sử đề ra đường lối đổi mới, còn việc hình thành đường lối đó
phải là một quá trình lâu dài, Người kiến trúc sư đầu tiên để xây dựng nên mô
hình ngôi nhà đổi mới đó chính là Tổng Bí thư Trường Chinh. Đồng chí đã vượt
lên những hạn chế về sức khoẻ và tuổi tác, dũng cảm tiến hành cuộc đấu tranh
với những quan điểm bảo thủ, giáo điều, với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
để cùng với Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương hình thành tư duy đổi mới
và xác lập nên đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội Đảng VI.
Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đất
nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Sau đợt điều
chỉnh giá cuối năm 1981, nâng giá hàng loạt mặt hàng mà không điều chỉnh tiền
lương một cách tương ứng, điều đó làm cho giá cả tăng vọt, lạm phát đến mức
chóng mặt khiến cho mức sống cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang và
cả nhân dân giảm sút nghiêm trọng. Sản xuất trì trệ, nền kinh tế trở nên tiêu
điều, tác động xấu đến toàn bộ đời sống xã hội, đến đạo đức, pháp luật, tâm tư
tình cảm, lòng tin của cán bộ và nhân dân. Cả xã hội phải xoay sở để duy trì
cuộc sống, tệ nạn, tiêu cực phát sinh, văn hóa, đạo đức của con người và xã hội
đứng trước nguy cơ tha hóa nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, cuối năm 1982, đồng
chí Trường Chinh nhận định rằng tình thế lúc này không thể tiếp tục kéo dài,
không thể duy trì cách nghĩ, cách làm cũ cũng như chủ trương, chính sách và cơ
chế quản lý như trước được nữa. Nhưng để thay thế cái cũ, tìm ra cái mới thì
phải nắm vững lý luận, hiểu rõ thực tế và nhìn thẳng vào sự thật, thấy được cái
gì ta đã làm được, cái gì ta chưa làm được. Do vậy ông đã quyết định trước mắt
cần làm gấp hai việc:
Một là: Tập hợp một nhóm nghiên cứu gồm những đồng chí có tư
duy đổi mới để nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn nước ta làm căn cứ
phương pháp luận cho việc xây dựng con đường và bước đi sắp tới.
Hai là: Tổ chức những
chuyến đi thực tế ở các địa phương, tìm ra những cái hay, cái dở và những bài
học thành công hay thất bại của cơ sở để đổi mới cách nghĩ, cách làm của chúng
ta.
Việc tập trung nghiên cứu lý luận, tích
cực khảo sát tình hình, tìm hiểu thực tế ở các địa phương của đồng chí Trường
Chinh trong những năm trước đổi mới cho chúng ta thấy, tư duy đổi mới của đồng
chí Trường Chinh là một quá trình được chuẩn bị kỹ lưỡng từ lý luận, phương
pháp luận, đến quá trình thâm nhập, nghiên cứu thực tiễn, để rút ra bài học
kinh nghiệm và từ đó đúc kết thành quan điểm, tư tưởng đổi mới.
Trong đường lối đổi mới, đồng chí Trường
Chinh tập trung nhấn mạnh vào việc đổi mới tư duy kinh tế cùng với đổi mới hệ
thống chính trị và công tác lý luận của Đảng. Tuy nhiên, triết lý sâu sắc trong
tư duy đổi mới của đồng chí Trường Chinh là tư tưởng giải phóng, đổi mới để
giải phóng mọi tiềm năng, phát triển lực lượng sản xuất vì mục đích phục vụ con
người, phát triển con người. Tư duy đổi mới xuyên suốt của đồng chí Trường
Chinh là đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển xã hội, xem việc
giải quyết vấn đề con người là thước đo tất cả.
Đổi mới với ý nghĩa ấy là sự đón nhận
thời cơ cũng đồng thời là sự chấp nhận những thách thức để phát triển. Với tấm
lòng với Đảng, với dân, với tâm huyết và sự quyết đoán của một nhà lãnh đạo,
đồng chí Trường Chinh khẳng định “Hoặc là tiến kịp trình độ phát triển chung
của thế giới để trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại nếu đổi mới kịp thời,
đúng đắn và sáng tạo, hoặc sẽ tụt hậu, suy thoái và lệ thuộc. Đảng ta,
hơn bao giờ hết phải đưa ra lựa chọn cho vận mệnh quốc gia, dân tộc”.
Đất nước ta sau 30 năm đổi mới, đã có sự
thay đổi tích cực, đời sống của nhân dân được cải thiện, vị thế của đất nước
trên trường quốc tế cũng đã được nâng cao, điều đó khẳng định tính đúng đắn của
đường lối đổi mới, sự sáng suốt của đồng chí Trường Chinh. Nhờ đâu mà đồng chí
có được ý chí, nghị lực và sự sáng suốt để dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, lựa
chọn con đường đổi mới, con đường đòi hỏi người ta phải có dũng khí vượt qua
những ràng buộc của quá khứ và sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách trong
tương lai. Điều gì đã giúp cho đồng chí trong những năm gần cuối của cuộc đời,
ở đỉnh cao nhất của chức vị lãnh đạo, đã không hề đắn đo, suy tính tầm thường,
dũng cảm đương đầu với thách thức, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, kiên định cùng
toàn Đảng, toàn dân dấn thân vào công cuộc đổi mới vĩ đại.
Đó là vì đồng chí Trường Chinh suốt đời
một lòng một dạ vì lợi ích của đất nước, của nhân dân, luôn đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết. Đó cũng là do đồng chí có phương pháp tư duy, tinh thần
làm việc và tác phong công tác đúng đắn, luôn bám sát và thấu hiểu tình hình
thực tế của đất nước.
Với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và cho sự
nghiệp tăng cường đại đoàn kết quốc tế. Đồng chí Trường Chinh đã được Đảng và
Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao Vàng - huân chương cao quý nhất.
Quê hương Nam Định tự hào đã sinh ra
đồng chí Trường Chinh - một người cộng sản ưu tú, một nhà lãnh đạo kiệt xuất
của cách mạng Việt Nam, cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí gắn liền với
những chặng đường đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây
dựng CNXH. Là một thanh niên trí thức được giác ngộ, đồng chí đã sớm đi theo
cách mạng và cống hiến trọn đời cho cách mạng. Trong quá trình hoạt động cách
mạng, lúc bí mật, lúc công khai, lại giữ nhiều trọng trách của Đảng và Nhà nước
nên đồng chí ít có dịp về thăm quê, nhưng tình cảm, trách nhiệm của đồng chí
đối với quê hương luôn là nguồn động viên to lớn để Đảng bộ và nhân dân Nam
Định vượt qua mọi khó khăn, tích cực góp phần trong công cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng CNXH và thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Cuộc đời đồng chí Trường Chinh là một
tấm gương về nhiều mặt cho các thế hệ hôm nay và mai sau noi theo. Trong giai
đoạn hiện nay, khi toàn Đảng ta, nhân dân ta đang tiếp tục đẩy mạnh công cuộc
đổi mới một cách toàn diện và sâu rộng trên tất cả mọi lĩnh vực, để phát huy
mọi thuận lợi, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua mọi trở ngại và khó khăn, đưa đất
nước ta phát triển nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tiến lên
cùng thời đại, thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh, thì việc nêu cao và học tập tấm gương, tinh thần, phong cách
làm việc, ý chí và trí tuệ đổi mới của đồng chí Trường Chinh có ý nghĩa sâu
sắc, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên trường Chính trị Trường
Chinh - ngôi trường vinh dự được mang tên nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạnh
Việt Nam, người con ưu tú của quê hương Nam Định - đồng chí Tổng Bí thư Trường
Chinh./.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐỘNG LỰC CHO SỰ PHÁT
TRIỂN
CỦA TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH
CN. LÊ TIẾN DŨNG
Trưởng
phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu
Nghiên cứu khoa học trong trường học - hoạt động trí
tuệ vận dụng phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu vào giảng dạy, học tập và
thực tiễn; nghiên cứu chính là sự tổng
hợp tri thức tiến hành hoạt động nhận thức góp phần giải quyết những vấn đề
khoa học do thực tiễn nhiệm vụ và nghề nghiệp đặt ra để đào sâu, mở rộng và
hoàn thiện vốn hiểu biết của con người.
Hoạt động nghiên cứu khoa học ở đây mang ý nghĩa thiết
thực sâu sắc; Với nhiều hình thức khác nhau, nghiên cứu khoa học rèn luyện khả
năng tư duy sáng tạo, khả năng phê phán, bác bỏ hay chứng minh một cách khoa
học những quan điểm; rèn luyện kỹ năng phân tích, tổng hợp kiến thức, tư duy
lôgic, xây dựng tinh thần hợp tác, giúp đỡ nhau trong hoạt động nghiên cứu.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu khoa học tạo ra sự tiếp cận với những vấn đề mà khoa
học và cuộc sống đang đặt ra, gắn lý luận với thực tiễn trong giảng dạy.
Quá trình nghiên cứu tích cực, độc lập với tư liệu và
thâm nhập thực tế, điều tra khảo sát, phỏng vấn... mở rộng tầm hiểu biết của
người tham gia nghiên cứu, hình thành phương pháp, cách thức tổ chức nghiên
cứu, sắp xếp công việc, khả năng giao tiếp và niềm tin khoa học, từng bước tạo
ra tố chất và bản lĩnh của cán bộ, giảng viên.
Qua nghiên cứu nhiều khái niệm, công thức sẽ bị lãng
quên, thay vào đó là phương pháp - tư duy, suy luận, diễn tả, nghiên cứu và
giải quyết vấn đề… được hình thành; kỹ năng nghiên cứu khoa học sẽ được đúc
kết, rút kinh nghiệm từ những thành công và thất bại của chính hoạt động nghiên
cứu khoa học chính là tiềm năng cho sự phát triển.
Trường Chính trị Trường Chinh với bề dầy 60 năm xây
dựng và phát triển, địa chỉ đỏ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán
bộ, đảng viên của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Hà Nam Ninh, tỉnh Nam Hà và nay
là tỉnh Nam Định. Nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên của nhà trường
thay đổi phù hợp với tình hình đất nước, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ
được Đảng và Nhà nước giao phó, yêu cầu của tình hình thực tế, sự phân công,
phân nhiệm của cấp ủy và chính quyền trong từng giai đoạn.
60 năm, biết bao thế hệ cán bộ, đảng viên đã được học
tập, rèn luyện thấm nhuần quan điểm của Đảng, Bác Hồ từ mái trường này để trở
thành những nhà lãnh đạo, quản lý... những con người “vừa hồng vừa chuyên” góp
phần to lớn cho sự phát triển của địa phương.
Những thành tích chung của nhà trường trong suốt chặng
đường 60 năm qua có đóng góp không nhỏ bởi nỗ lực lao động khoa học sáng tạo
của bao lớp thế hệ cán bộ, giảng viên nhà trường.
Được thành lập (9/6/1956) để thực hiện nhiệm vụ tập
huấn, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên phục vụ cho công cuộc cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trường Đảng tỉnh Nam Định (nay là Trường Chính trị
Trường Chinh) đã góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng cho cán bộ, đảng viên trong Tỉnh.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những nhà giáo
cộng sản của nhà trường đã vượt qua muôn vàn khó khăn trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội thời chiến, góp phần gieo hạt lý tưởng cộng sản và niềm tin tất thắng
vào chủ nghĩa xã hội cho bao thế hệ cán bộ, đảng viên lúc bấy giờ, biến đó
thành sức mạnh, sức người, sức của góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương và miền Bắc.
Sau năm 1976, đất nước bước vào giai đoạn khó khăn,
khủng hoảng toàn diện do hậu quả chiến tranh để lại, sai lầm chủ quan duy ý trí
và những tác động tiêu cực của tình hình. Những người thầy giáo lý luận phần
lớn bước ra từ chiến tranh khoác màu áo lính cùng các thế hệ tiền thân của nhà
trường một lần nữa với ý trí quyết tâm và tư duy sáng tạo đã tiếp tục bước vào
cuộc chiến đấu mới để duy trì nuôi dưỡng lý tưởng cộng sản, định hướng xã hội
chủ nghĩa với các mô hình bồi dưỡng, tập huấn phù hợp đưa nhà trường để vượt
qua giai đoạn khó khăn này.
Đất nước đổi mới với tư duy sáng tạo của Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đưa đến sự thay đổi lớn lao trong nhà trường.
Đổi mới tư duy, đòi hỏi nhà trường và từng cán bộ, giảng viên phải không ngừng
sáng tạo, học hỏi; đổi mới chính mình,
thay đổi phương pháp nhận thức, phương pháp giảng dạy, học tập; xóa bỏ tư duy
giáo điều, bao cấp, bảo thủ và thay vào đó là sự thay đổi cách tiếp cận, nhận
thức về các vấn đề truyền thống, nguyên lý trên cơ sở các nguyên tắc bất di,
bất dịch về chủ nghĩa cộng sản. Đây thực chất là cuộc lột xác khó khăn, cam go
và đầy sáng tạo của những người thầy giảng dạy lý luận.
Mặt khác, xuất phát từ yêu cầu đổi mới hệ thống chính
trị, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ của nhà trường ngày càng đa dạng yêu cầu đội ngũ cán bộ, giảng viên nhà
trường phải thực sự năng động, sáng tạo; phải tự xây dựng, hoàn thiện các
chương trình, giáo trình, cập nhật tổng kết thực tiễn; hoàn thiện phương
pháp... để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Các chương trình bồi dưỡng kiến
thức quản lý nhà nước, kỹ năng nhiệm vụ quản lý, văn phòng, văn thư đánh máy…
phục vụ cho cải cách hành chính nhà nước với các chuyên đề tự xây dựng (như:
Thẩm quyền thi hành pháp luật của chính quyền cơ sở, công tác tư pháp, văn thư,
hội đồng...) được cán bộ giảng viên nhà trường tự nghiên cứu, xây dựng trong
thời kỳ (1985- 2002); đây là những nghiên cứu có đóng góp tích cực trong việc
xây dựng các chương trình trong cải cách hành chính do Trường Hành chính Trung
ương (sau là Học viện Hành chính quốc gia) chủ trì.
Trong giai đoạn này, mặc dù chưa có quy định chính
thức về nhiệm vụ nghiên cứu khoa học nhưng lãnh đạo, cán bộ, giảng viên nhà
trường xuất phát từ yêu cầu đổi mới chương trình và đòi hỏi của thực tiễn đã tự
nghiên cứu, tự đổi mới. Xác định nghiên cứu, đổi mới, sáng tạo là nhiệm vụ tự
thân của người làm công tác giảng dạy tại nhà trường. Các đề tài nghiên cứu về
thôn, xóm và mô hình quản lý thôn, xóm tại Nam Định, lồng ghép chương trình đào
tạo, bồi dưỡng; đánh giá cán bộ sau đào tạo... (2003-2008) được thực hiện đã mở
ra những định hướng mới cho quản lý, đem lại hiệu quả thiết thực nâng cao chất
lượng công tác đào tạo bồi dưỡng, chất lượng cán bộ, công chức cho tỉnh và góp
phần đem lại vị thế, khẳng định vai trò tham mưu của nhà trường đối với Đảng bộ
tỉnh và Học viện trong việc nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên và đáp ứng
yêu cầu giáo dục chính trị tư tưởng và đào tạo sát với nhiệm vụ chính trị
của từng giai đoạn. Quá trình nghiên cứu
đã làm cho những người thầy tự đổi mới mình, tự sáng tạo ra các giá trị chuyên
môn để hoàn thành tốt trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao phó, tổng kết thực
tiễn để giải quyết các yêu cầu lý luận trong tình hình mới.
Năm 2009, sau Quyết định 184-QĐ/TW ngày 03/9/2008 của
Ban Bí thư Trung ương về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường Chính
trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Quyết định số 268/QĐ-HVCT-HCQG ngày
03/02/2012 của Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
ban hành quy chế giảng viên, quy chế hoạt động khoa học của các trường Chính
trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Quyết định số 339-QĐ/TU ngày
05/01/2012 về việc phê duyệt chức năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy của trường
Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định, công tác nghiên cứu khoa học trong nhà
trường đã có nhiều khởi sắc.
Kế thừa truyền
thống, sự năng động, sáng tạo của các thế hệ cán bộ, giảng viên đi trước và
những căn cứ, định hướng cụ thể thực hiện nhiệm vụ, nhà trường đã nhanh chóng
triển khai tổ chức thực hiện các quyết định của Trung ương, Học viện và Tỉnh.
Quy định rõ ràng về chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức trường chính trị là cơ
sở để nhà trường triển khai việc thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động khoa học.
Hội đồng khoa học nhà trường được kiện toàn, phòng Nghiên cứu khoa học - Thông
tin - Tư liệu được thành lập; quy chế quản lý khoa học, quy định đề tài cấp
trường, cấp khoa, trang Website được xây dựng, thư viện nhà trường được củng
cố, nâng cấp.
Với đội ngũ hùng hậu giảng viên có kinh nghiệm, thực
tiễn được bổ sung nhiều cán bộ, giảng viên, các nhà nghiên cứu trẻ được đào tạo
cơ bản, có trình độ cao và cơ chế, chính sách nghiên cứu khoa học thống nhất,
đồng bộ đã tạo ra sức mạnh mới, mở đường cho hoạt động tư duy sáng tạo trong
công tác nghiên cứu khoa học của nhà trường. Các khoa, phòng và đội ngũ cán bộ,
giảng viên cùng với việc tích cực thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy, phục vụ
giảng dạy, các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được đặc biệt đề cao.
Các chương trình được thống nhất, nhiệm vụ khoa học
được đặt ra cụ thể đối với người làm công tác giảng dạy yêu cầu công tác nghiên
cứu khoa học của nhà trường cần có sự
đổi mới căn bản; những nghiên cứu khoa học có tính chất ứng dụng vào quá trình
đào tạo, bồi dưỡng được đặc biệt chú trọng; như nghiên cứu đổi mới phương pháp,
cụ thể hóa chương trình, giáo trình đảm bảo sự phù hợp với đặc điểm tình hình
địa phương, phù hợp với mô hình và đối tượng đào tạo; tham mưu cho Đảng bộ và
chính quyền tỉnh nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên, chất lượng lãnh đạo,
quản lý sau đào tạo đã và đang trở thành yêu cầu bức thiết.
Đổi mới, xây dựng và xác định chi tiết các yêu cầu,
chương trình, quy trình và nội dung nghiên cứu khoa học luôn là nhiệm vụ thường
xuyên trong nhà trường. Hàng năm 100% cán bộ, giảng viên nhà trường hoàn thành
vượt định mức chỉ tiêu nhiệm vụ nghiên cứu khoa học; các khoa, phòng, tổ chức
thường xuyên có các hội thảo, tọa đàm, trao đổi chuyên môn. Các đề tài cấp
tỉnh, cấp trường, cấp khoa, các sáng kiến khoa học... được thực hiện nề nếp,
chất lượng; nghiên cứu khoa học gắn chặt với công tác chuyên môn nhằm hiệu quả
nâng cao chất lượng đào tạo; cán bộ, giảng viên trong nhà trường tích cực
nghiên cứu, viết bài cho các tạp chí khoa học, thực hiện các nghiên cứu độc
lập; vị thế khoa học của nhà trường nâng cao, công tác nghiên cứu khoa học trở
thành nhiệm vụ trọng tâm và động lực cho sự nghiệp phát triển của nhà trường./.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRẺ
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
ThS. HOÀNG THỊ CHÂU YÊN
Trưởng
phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị
Đối với trường Chính trị cấp tỉnh, giảng viên luôn là
lực lượng nòng cốt trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trường Chính trị
Trường Chinh tỉnh Nam Định trong những năm qua có sự chuyển giao thế hệ: Đội
ngũ giảng viên có kinh nghiệm giảng dạy lâu năm nghỉ chế độ hưu trí cùng thời
điểm và được thay thế bởi đội ngũ giảng viên trẻ - những người có thâm niên
giảng dạy dưới 10 năm (hiện nay có 17/39 đồng chí chiếm tới 44% đội ngũ giảng
viên của nhà trường).
Giảng viên trẻ của nhà trường có nhiều ưu thế: được đào tạo cơ bản về chuyên môn. 100% giảng viên trẻ đạt trình độ cử nhân trở lên,
trong đó có giảng viên có 2 bằng đại học; 04 giảng viên trình độ thạc
sĩ, 03
giảng viên đang học cao học. Về trình độ lý luận: 02 giảng viên có trình độ cao
cấp lý luận
chính trị, 05 giảng viên có trình độ
trung cấp lý luận chính trị - hành chính. Với nhiệt huyết của tuổi trẻ, đội ngũ
giảng viên trẻ luôn xung kích trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị của nhà trường từ công tác chuyên môn cho đến
các hoạt động phong trào. Tính riêng năm 2015, nhà trường giảng dạy và phục vụ
giảng dạy 65 lớp (7.068 học viên) vượt mức kế hoạch tỉnh giao (140,4%), bao gồm
cả lớp giảng dạy ngoài giờ hành chính. Đa số các lớp đặt tại huyện, thành phố
trong phạm vi toàn tỉnh nhưng giảng viên trẻ luôn phát huy tinh thần trách
nhiệm, tích cực hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy, không có hiện tượng muộn giờ, bỏ
giờ, sót lớp.
Ngoài ra, tinh thần cầu thị, luôn lắng nghe, học hỏi,
sáng tạo, tìm tòi cái mới, nhanh nhạy trong tiếp cận và xử lý thông tin, áp
dụng phương pháp giảng dạy tích cực, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các
phương tiện giảng dạy hiện đại, tự trau dồi kiến thức cho bản thân,… cũng luôn
được đội ngũ giảng viên trẻ chú trọng. Bằng sự nỗ lực phấn đấu của bản thân, sự
tạo điều kiện của tổ chức, có giảng viên trẻ đã giữ cương vị trưởng, phó các
đoàn thể, 3 giảng viên được quy hoạch chức danh trưởng, phó khoa, phòng.
Bên cạnh đó, giảng viên trẻ còn có những yếu điểm cần
khắc phục. Mặc dù được đào tạo kiến thức chuyên môn bài bản, sắp xếp vị trí
việc làm đúng chuyên ngành nhưng nhìn chung kiến thức thực tiễn trong các bài
giảng còn hạn chế, chủ yếu vẫn nặng về lý luận, hầu hết chưa trang bị được
những vấn đề thuộc về kỹ năng, nghiệp vụ mang tính “cầm tay chỉ việc” cho học
viên là cán bộ cấp cơ sở. Thêm vào đó, một số giảng viên trẻ cách xử lý các
tình huống sư phạm phát sinh trong quá trình giảng dạy chưa thực sự hiệu quả và
phù hợp với đối tượng học viên của nhà trường
Điểm yếu trên trong đội ngũ giảng
viên trẻ là do những nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, tuổi đời, tuổi nghề của đội ngũ thấp. Tính đến tháng
4/2016, độ tuổi bình quân là 31,76 tuổi, bình quân tuổi nghề là 6,17 năm. Trong
đó, có 7/17 giảng viên mới có thâm niên giảng dạy 3 năm. Dù đã rất cố gắng tìm
tòi, học hỏi, nghiên cứu thực tế song để có kiến thức thực tiễn làm tăng sức
thuyết phục trong bài giảng của giảng viên trẻ cần phải có thêm thời gian, kinh
nghiệm và sự chỉ dẫn của đồng nghiệp đi trước.
Thứ hai, 12/17 giảng viên trẻ được tuyển dụng vào trường ngay
khi tốt nghiệp đại học, chỉ có 5/17 giảng viên đã có thâm niên giảng dạy trước
khi tuyển dụng do đó kinh nghiệm sống, kỹ năng mềm trong công tác còn ở mức độ
nhất định.
Thứ ba, xuất phát từ đặc thù đội ngũ và nhiệm vụ chính trị
của nhà trường. Năm 2013, có tới 12 giảng viên về hưu cùng thời điểm gây tình
trạng hẫng hụt đội ngũ kế cận trong khi nhà trường phải khẩn trương thực hiện
Nghị quyết 05-NQ/TU ngày 25/7/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVIII “về nâng cao chất lượng cán bộ xã, phường,
thị trấn từ năm 2011-2015 và những năm tiếp theo”; Hướng dẫn số 16-HD/BTCTU
ngày 10/01/2014 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy “thực
hiện một số nội dung Kết luận số 15-KL/TU ngày 22/9/2011 của Tỉnh ủy (Khóa
XVIII) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 06/8/2007 của
Tỉnh ủy (Khóa XVII) và các văn bản khác của Tỉnh ủy, UBND tỉnh.Vì vậy, số
lượng lớp mở nhiều, giảng viên trẻ phải nhanh chóng tiếp cận các chương trình
đào tạo, bồi dưỡng khác nhau nên chất lượng bài giảng còn có những hạn chế.
Để khắc phục những yếu điểm đó nhà trường đã tập trung
sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với đội ngũ giảng viên nói chung và giảng viên trẻ nói
riêng:
Một là, Đảng ủy nhà trường quán triệt thực hiện Nghị quyết số
06-NQ/ĐU ngày 24/3/2016 về tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng tại Trường Chính trị Trường Chinh. Trong đó đã chỉ rõ
phải xây dựng được đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, đạt
chuẩn về trình độ chuyên môn, trình độ lý
luận chính trị, phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp.
Hai là, Ban Giám đốc, lãnh đạo các khoa, phòng chú trọng
trong công tác theo dõi, giúp đỡ, kèm cặp giảng viên trẻ. Có những hoạt động
chuyên môn dành riêng cho giảng viên trẻ như hoạt động kiểm tra giáo án, dự
giờ, kiểm tra thăm lớp định kì hoặc đột xuất, thao giảng, lấy phiếu phản hồi từ
học viên,…Từ đó, Ban Giám đốc, lãnh đạo các đơn vị đánh giá đúng thực trạng
chất lượng giảng dạy cũng như tâm tư, nguyện vọng của đội ngũ để động viên,
biểu dương, khích lệ kịp thời đồng thời thẳng thắn, nghiêm túc rút kinh nghiệm,
định hướng giải pháp để khắc phục những tồn tại, hạn chế.
Ba là, các tổ chức chính trị xã hội trong nhà trường đặc
biệt là Đoàn thanh niên tổ chức sinh hoạt chuyên đề tạo diễn đàn cho đội ngũ
giảng viên trẻ chia sẻ kỹ năng, kinh nghiệm giảng dạy và những vấn đề thuộc về
nội dung chuyên môn như tổ chức Tọa đàm “Đoàn
Thanh niên tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại Trường Chính trị Trường Chinh”
Bốn là, nhà trường tích cực đổi mới công tác nghiên cứu khoa
học, nghiên cứu thực tế theo hướng khoa học, thiết thực và hiệu quả. Nghiên cứu
thực tế trong và ngoài tỉnh đều cần gắn
với các đề tài khoa học cấp trường, cấp khoa và sát với nội dung bài giảng
trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhà trường đảm nhiệm.
Năm là, Hội đồng khoa học nhà trường yêu cầu đội ngũ giảng
viên phải xây dựng được giáo án mẫu và đặc biệt phải có giáo án bổ trợ đối với
những lớp có đối tượng học viên đặc thù.
Sáu là, nhà trường tiếp tục động viên, tạo điều kiện về mọi
mặt để giảng viên trẻ có cơ hội được học tập nâng cao về trình độ chuyên môn và
trình độ lý luận chính trị. Ba năm trở lại đây, có 03 giảng viên trẻ được cử đi
học cao học, 05 giảng viên học trung cấp lý luận chính trị - hành chính, 03
giảng viên học lớp bồi dưỡng kiến thức chương trình chuyên viên.
Với những giải pháp cơ bản nêu trên, đội ngũ giảng
viên trẻ đang dần trưởng thành về mọi mặt. Song, để lực lượng này thực sự là
đội ngũ kế cận viết tiếp lịch sử truyền thống 60 năm Trường Chính trị Trường
Chinh, nhà trường cần tiếp tục tham mưu để Tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện “Đề án đưa giảng viên Trường Chính trị
Trường Chinh đi thực tế tại cơ sở” trong đó chú ý đối tượng là đội ngũ
giảng viên trẻ và tiếp tục tạo điều kiện tối đa cho giảng viên trẻ đi học sau
đại học, có cơ chế đặc thù cho giảng viên trẻ sớm được học chương trình Cao cấp
lý luận chính trị để phục vụ giảng dạy; có cơ chế riêng trong công tác tuyển
dụng giảng viên cho nhà trường.
Tiếp tục thực hiện các giải pháp hiện có, tích cực tìm
tòi những giải pháp mới, đặc biệt với sự lãnh đạo, quan tâm tạo điều kiện của
Tỉnh, sự nỗ lực của đội ngũ giảng viên trẻ, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng
rằng thế hệ giảng viên trẻ hôm nay đang vững vàng viết tiếp trang sử truyền thống
của Trường Chính trị Trường Chinh trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của
tỉnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế./.
MỘT VÀI Ý KIẾN TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM VỀ
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở NAM ĐỊNH
TRẦN BÙI MỊCH
Giám
đốc Trung tâm BDCT huyện Vụ Bản
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác giáo dục đào tạo nói chung và chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng trong hệ thống chính trị nói riêng
luôn giữ vai trò quan trọng, liên quan đến việc hình thành nguồn lực con người
- yếu tố quyết định thành công của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
giai đoạn hiện nay.
Trong những năm qua, công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ hệ thống chính trị ở cơ sở đã được tỉnh quan tâm. Trường
Chính trị Trường Chinh của tỉnh hàng năm đều có kế hoạch cho công tác này và đã
thu được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hệ
thống chính trị cơ sở của tỉnh còn có những hạn chế. Vì vậy phương hướng tới
cần đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở (nhất là cán bộ xã) cần
phải thiết thực hơn nữa, giúp cho họ làm việc một cách có hiệu quả trong thực
tiễn công tác.
Trong bài viết này xin được đề cập
đến cách nhìn nhận những yếu tố liên quan và những giải pháp để nâng cao chất
lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở cơ sở của Tỉnh.
Muốn đánh giá chính xác về chất
lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở phải xuất phát từ những chuyển biến
sau khi ra trường của người được đưa đi đào tạo, bồi dưỡng. Vì sau khi họ được
đưa đi đào tạo, bồi dưỡng họ có hoạt động công tác không? Kết quả công việc họ
được giao ở mức độ nào? Đó chính là tiêu chí để đánh giá chất lượng, hiệu quả
của công tác đào tạo, bồi dưỡng.
Nếu sau khi được đào tạo, bồi dưỡng
người được đi học về được cấp uỷ, chính quyền ở cơ sở bố trí, sắp xếp công
việc, hay khi đưa ra để lấy tín nhiệm bầu vào các chức danh lãnh đạo, quản lý.
Trong quá trình làm việc hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao, có uy tín
ngày càng cao trong cán bộ, đảng viên, trong quần chúng thì có thể kết luận
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Ngược lại, nếu sau khi qua đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ “dự nguồn”cơ sở gửi đi khi về không được bố trí, giới thiệu,
không được đảng viên, quần chúng nhân dân tín nhiệm dẫn tới không được làm việc
là một sự lãng phí lớn và việc đào tạo, bồi dưỡng không để lại hiệu quả.
Hoặc nếu cán bộ sau khi qua đào tạo,
bồi dưỡng được bố trí, sắp xếp công việc mà không hoàn thành tốt công việc được
giao do năng lực công tác yếu kém, dẫn đến uy tín ngày càng giảm thì chất
lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng chưa cao.
Thực trạng về công tác cán bộ nhiều
năm qua cho thấy: không chỉ ở cơ sở khi có yêu cầu của cấp trên cử cán bộ đi
đào tạo đã thực hiện có tính chất chiếu lệ nên sau khi cán bộ “dự nguồn” được
cử đi đào tạo dù có kết quả tốt nhưng khi về lại không được bố trí, sắp xếp
công việc. Cũng có nhiều trường hợp số cán bộ đã qua đào tạo, bồi dưỡng khi
được sắp xếp lại không đủ tín nhiệm để giữ cương vị được sắp xếp và cũng có khá
nhiều cán bộ sau khi đưa đi đào tạo về, làm việc không có chuyển biến gì so với
trước khi đào tạo.
Để khắc phục tình trạng trên nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hệ thống chính trị cơ
sở xin đề xuất một số ý kiến sau:
Thứ nhất: cần làm tốt công tác quy hoạch cho đào tạo cán bộ ở
cơ sở. Để làm tốt việc này phải đảm bảo nguyên tắc: tập trung dân chủ trong
tuyển cử. Trước hết cần có dự kiến của chi uỷ, đảng uỷ đơn vị. Sau đó thăm dò ý
kiến của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Từ những ý kiến thăm dò đó để kết luận
chính xác về những cán bộ trong quy hoạch các chức danh để đưa đi đào tạo, bồi
dưỡng. Với quy định như vậy có thể loại bỏ được sự tuỳ tiện hoặc cảm tình
riêng, tư tưởng cục bộ, nhờ đó có thể khắc phục được tình trạng sau đào tạo,
bồi dưỡng người đi học về không được bố trí công việc hoặc bố trí mà không được
bầu.
Thứ hai: cần phải có cơ chế chính sách quy định cụ thể nhằm
ổn định đội ngũ cán bộ cơ sở để người được cử đi đào tạo, bồi dưỡng tin tưởng
rằng: nếu kết quả học tập tốt sẽ được bố trí, sử dụng làm việc ổn định trong cơ
quan đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân. Vì thế chắc chắn họ sẽ khắc phục
được khó khăn, tìm mọi cái thiếu để học tập tốt. Ngược lại nếu học viên thấy
việc học tập là không hoặc chưa cần thiết thì kết quả học tập càng không thể
tốt được.
Đây là giải pháp quan trọng không
thể thiếu được nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị hiện nay.
Thứ ba: nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải phù
hợp, thiết thực với đối tượng người học. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hệ
thống chính trị cơ sở gồm nhiều chương trình: Trung cấp chính trị, Trung cấp
chính trị - hành chính, Trung cấp pháp luật, Trung cấp hành chính - văn thư và
các chương trình đại học, cao cấp, thì tuỳ mỗi loại chương trình mà tăng thêm
phần nghiệp vụ, thực hành, có nhiều bài tập tình huống. Vì cán bộ cơ sở là đội
ngũ cán bộ thực hành, trực tiếp thực hiện đường lối, chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước ở cơ sở.
Thứ tư: về công tác giảng dạy, tổ chức quản lý, sau khi có
nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp các cơ sở đào tạo (Trung tâm
BDCT, Trường Chính trị tỉnh) cần có được đội ngũ giảng viên giỏi, tâm huyết,
trách nhiệm với nghề, có kinh nghiệm giảng dạy, cách tổ chức quản lý tốt,
thường xuyên liên hệ với nơi cử người đi học, chắc chắn chất lượng, hiệu quả sẽ
cao. Ngược lại đội ngũ giảng viên yếu, thiếu tâm huyết với nghề, tổ chức quản lý
lỏng lẻo sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng. Từ
thực tế đó đặt ra mấy yêu cầu:
- Với chức năng đào tạo, bồi dưỡng,
Trường Chính trị tỉnh cũng như các Trung tâm BDCT có kế hoạch tuyển dụng, bồi
dưỡng, đưa đi đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giảng viên. Từ xưa đến nay, cha ông
ta đã tổng kết: “Không thể có trò giỏi nếu không có thầy giỏi”, mà trò ở các
Trung tâm BDCT và ở Trường Chính trị tỉnh lại là người lớn, đang công tác, họ
có chức danh, trình độ và kinh nghiệm.
- Trong giảng dạy phải kết hợp nhiều
phương pháp: thuyết trình, giảng giải, lấy thí dụ ở thực tiễn để minh hoạ, đặt
câu hỏi nêu tình huống thực tiễn; yêu cầu học viên giải quyết, qua đó mà phát
huy tính độc lập sáng tạo, không thụ động ở người học. Sau đó giảng viên giải
đáp và đưa ra hướng giải quyết.
- Trong chấm thi phải hết sức nghiêm
túc, sao cho mỗi điểm phải hiển thị năng lực của học viên, đồng thời đảm bảo
công bằng trong kết quả học tập. Qua đó học viên thấy được giá trị đích thực
của mỗi đề thi, sẽ nỗ lực để có kết quả học tập cao. Nếu chấm thi không công
bằng sẽ triệt tiêu nỗ lực trong học tập của học viên.
- Cần có sự liên hệ chặt chẽ giữa cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng với cơ quan quản lý cán bộ nơi trực tiếp cử cán bộ đi đào
tạo, bồi dưỡng bằng việc thông báo kết quả học tập, rèn luyện của học viên nhằm
nâng cao ý thức trách nhiệm của người học trước cơ sở cử họ đi học.
Trên đây là những suy nghĩ có tính
chất đóng góp nhằm góp tiếng nói vào nội dung nâng cao chất lượng, hiệu quả đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở của tỉnh Nam Định giai
đoạn mới./.
ĐỔI MỚI ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP HỆ ĐÀO
TẠO TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH
TỈNH NAM
ĐỊNH
ThS. LÊ THỊ NHƯ HOA
Trưởng
phòng Đào tạo
Đánh giá kết quả học tập là một khâu quan trọng trong
quá trình đào tạo. Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập không chỉ nhằm mục
đích đánh giá kết quả quá trình học tập của người học mà còn là nguồn thông tin
phản hồi giúp người dạy và người quản lý nắm bắt được chất lượng giảng dạy để
từ đó có những điều chỉnh phù hợp. Đổi mới đánh giá kết quả học tập sẽ góp
phần thúc đẩy các quá trình khác như
đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, cách thức tổ chức hoạt động dạy và
học. Tuy nhiên, làm thế nào để việc đánh giá kết quả phản ánh trung thực, chính
xác, đầy đủ những kiến thức mà người học tiếp thu được và làm thế nào để có
phương pháp đánh giá kết quả học tập thích hợp vẫn là những điều mà các nhà quản
lý giáo dục, các nhà giáo quan tâm.
Việc đánh giá kết quả học tập của học viên hệ đào tạo
Trung cấp lý luận chính trị - hành chính tại Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh
Nam Định được thực hiện theo Quy chế thi, kiểm tra và xếp loại học tập (ban
hành kèm theo Quyết định 268/QĐ-HVCT-HCQG ngày 03/02/2010 của Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh) và Hướng dẫn số 08/HD-HVCTQG ngày 29/5/2014 Hướng dẫn viết tiểu luận
và thi tốt nghiệp chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành
chính. Kết quả học tập của học viên được đánh giá chủ yếu thông qua điểm thi
hết phần học. Điều đó đòi hỏi điểm thi cần phản ánh khách quan, trung thực,
chính xác quá trình học tập của người học. Bên cạnh đó, yêu cầu đổi mới, nâng
cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế cũng đặt ra những đòi
hỏi phải đổi mới đánh giá kết quả học tập của học viên.
Nhận thức rõ những yêu cầu đó, trong thời gian qua,
Trường Chính trị Trường Chinh đã từng bước đổi mới đánh giá kết quả học tập của
học viên.
Trước hết, trên cơ sở Quy chế của Học viện, nhà trường
đã ban hành các quyết định, quy định, hướng dẫn thực hiện: Kế hoạch số 05/KH-TCTTC
ngày 24/12/2010 triển khai thực hiện các quy chế, quy định ban hành kèm theo
Quyết định số 268/QĐ- HVCT-HVQG ngày 03/02/2010 của Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh; Kế hoạch 12/KH-TCTTC ngày 26/8/2013 về việc triển khai
thực hiện hướng dẫn số 02/HD-HVCT-HCQG ngày 13/3/2013 của Giám đốc Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh về việc thi tốt nghiệp chương trình
Trung cấp lý luận chính trị - hành
chính; Quy định số 22/QĐ-TCTTC ngày
23/4/2014 về việc xét điều kiện dự thi hết môn, hết phần học; học bổ sung, thi
bổ sung, thi lại đối với học viên các lớp thuộc Trường
Chính trị Trường Chinh; Quyết định số 58/QĐ-TCTTC
ngày 22/4/2014 về việc ban hành Quy chế chấm thi tốt nghiệp và chấm tiểu luận
cuối khoá; Hướng dẫn số 08/HD-TCTTC ngày 22/02/2016
hướng dẫn viết tiểu luận cuối khoá và thi tốt nghiệp chương trình đào tạo Trung
cấp lý luận chính trị - hành chính. Đây
chính là cơ sở để các giảng viên đánh giá kết quả học tập của học viên bảo
đảm chính xác, khách quan, công bằng.
Về hình thức thi, kiểm tra: nhà
trường thực hiện hình thức thi viết, học viên không được sử dụng tài liệu.
Phương pháp này có ưu điểm là tạo cho học viên có điều kiện trình bày những vấn
đề đã học một cách chủ động, rèn khả năng lập luận lôgic, phân tích, tổng hợp kiến
thức phần học, liên hệ kiến thức lý luận với thực tế tại cơ quan, đơn vị.
Về đề thi: bước đầu xây dựng ngân
hàng đề thi; nội dung đề thi đã thực hiện gắn giữa lý luận và thực tiễn, bảo
đảm tỉ lệ: kiến thức lý luận (lý thuyết) chiếm từ 60-70%, kiến thức thực tế
chiếm từ 30-40%.
Bố trí chấm thi tập trung; phân
công giảng viên chấm thi đúng chuyên môn. Đối với những bài thi có sự phối hợp
thực hiện giữa các khoa trong giảng dạy, nhà trường quy định khoa giảng dạy nội
dung nào sẽ chấm thi nội dung đó. Vì vậy, có những bài thi bố trí 4 cán bộ chấm
thi.
Tuy nhiên, việc đánh giá kết quả
học tập của nhà trường còn bộc lộ một số hạn chế, như: mới sử dụng 01 hình thức
thi viết; một số đề thi còn nặng về kiến thức lý luận, chưa có tính phân loại
học viên…
Để tiếp tục đổi mới đánh giá kết
quả học tập của học viên, cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Về hình thức thi:
Sử dụng nhiều hình thức thi.
Ngoài hình thức thi viết, có thể sử dụng hình thức thi trắc nghiệm, thi vấn
đáp. Thi vấn đáp cũng như trắc nghiệm với nhiều câu hỏi cho một môn học,
người học sẽ không thể học tủ, học vẹt; không thể chép lại giáo trình, hay
bài giảng, do đó buộc người học phải tích cực học bài để nắm được kiến
thức. Hình thức thi vấn đáp có thể áp dụng đối với các lớp học theo hình
thức đào tạo tập trung. Số lượng từ 2 đến 3 phần học trong chương trình. Thi
trắc nghiệm có thể tổ chức đối với nhiều phần học, ở các hình thức đào tạo. Có
thể kết hợp thi trắc nghiệm và tự luận trong cùng một đề thi.
Ngoài đánh giá bằng bài thi hết
phần học và thi tốt nghiệp, nên bổ sung đánh giá thông qua bài kiểm tra của mỗi
phần học. Bài kiểm tra không chỉ để xét đủ điều kiện thi mà được tính vào điểm
phần học với tỉ lệ điểm chiếm từ 25% đến 30% tổng điểm của phần học.
- Về đề thi:
Xây dựng ngân hàng đề thi, bao
gồm đề thi hết phần học và đề thi tốt nghiệp. Ngân hàng đề thi được Hội đồng
khoa học nhà trường thông qua và công khai trên trang Website để học viên chủ
động học tập, tích cực chuẩn bị cho bài thi.
Nội dung đề thi vừa phải bảo đảm
kiến thức cơ bản vừa có phần vận dụng kiến thức lý luận để xử lý những vấn đề
thực tiễn đang đặt ra. Xuất phát từ đối tượng đào tạo chương trình Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính là những cán bộ lãnh đạo, quản lý và dự nguồn các
chức danh lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở. Cái cần nhất đối với họ là biết vận
dụng kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề trong thực tế và kỹ năng công
tác, chứ không phải học thuộc để trả bài. Vì vậy, đề thi nên ra dưới dạng tổng
hợp kiến thức, học viên được sử dụng
giáo trình và tài liệu tham khảo, có tính phân loại học viên để phát huy
tư duy sáng tạo của người học.
Thực hiện tốt những nội dung
trên, sẽ bảo đảm đánh giá đúng kết quả học tập của học viên. Điều đó không chỉ
tác động đến người học mà tác động đến cả quá trình dạy và học theo hướng tích
cực, qua đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường./.
ĐỔI MỚI
HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN NHÀ TRƯỜNG
ThS. CAO
THỊ THU HIỀN
Phó Trưởng phòng Nghiên cứu Khoa học - Thông tin -
Tư liệu
Thông tin là
vô cùng quan trọng, chìa khóa vạn năng mở ra thế giới tri thức và nhận biết giá
trị trong quá khứ, hiện tại và dự báo tương lai; thông tin hiện nay đa dạng
dưới nhiều hình thức. Trong nghiên cứu,
giảng dạy, học tập lý luận chính trị - hành chính ở trường Chính trị Trường Chinh, cán bộ, giảng
viện, học viên cùng với việc tiếp nhận thông tin từ thực tiễn công tác sinh
động, còn phải tích cực khai thác thông tin từ hệ thống tài liệu, sách, báo
trong Thư viện nhà trường.
Là đơn vị đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho tỉnh, qua các thời kỳ, nhà trường luôn
quan tâm, trang bị cơ sở vật chất và các điều kiện khác để phục vụ tốt công
tác, giảng dạy, học tập. Trước đây, Thư viện nhà trường đặt tại nhà cấp 4 nên
không thuận lợi cho việc bảo quản sách, tài liệu. Đến cuối năm 1999, cơ sở vật
chất nhà trường được cải thiện hơn, Thư viện
được chuyển lên tầng 2 nhà C thuận tiện hơn cho công tác lưu trữ, bảo
quản và tìm kiếm thông tin. Năm 2006, Thư viện được chuyển sang khu nhà D (tầng
3) cùng với khu lớp học để phục vụ thuận lợi cho giảng dạy, học tập, nghiên
cứu.
Có thể nói,
Thư viện nhà trường là nơi khai thác thông tin chính thống, hữu ích và ngày
càng tương xứng hơn với vị trí của một trường Chính trị cấp tỉnh. Hiện nay, Thư
viện có hệ thống giá sách, tài liệu chắc chắn, mỹ quan hơn so với trước đây;
máy tính nối mạng internet, mạng nội bộ… giúp cán bộ thư viện cập nhật thông
tin và truyền tin một cách nhanh chóng hơn; nguồn vốn tài liệu trong Thư viện
mỗi năm được bổ sung thêm các đầu sách có giá trị lý luận, thực tiễn; các tài
liệu báo cáo chính trị của địa phương đã được cập nhật; hệ thống sổ sách theo
dõi, quản lý việc mượn, trả tài liệu đã tổ chức khoa học hơn…
Tuy nhiên,
trong nền kinh tế tri thức, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước với chủ
trương đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, tin học hóa trong quản lý nhà nước,
Thư viện nhà trường có xu hướng bộc lộ một số hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu hiện
nay như:
Thứ nhất: Về cơ sở vật chất, nguồn tài liệu
Hiện nay, số
vốn tài liệu trong Thư viện còn ít so với quy mô một thư viện của trường Chính
trị cấp tỉnh. Số lượng sách tham khảo trong Thư viện mang tính cập nhật thông
tin không nhiều; chủng loại sách chưa đa dạng ở các lĩnh vực; các loại báo, tạp
chí ở Trung ương để tham khảo còn khiêm tốn…trong khi giảng dạy lý luận chính
trị - hành chính lại bao quát mọi lĩnh vực, đòi hỏi tính cập nhật thực tiễn
cao.
Mặt khác, tổ
chức bộ máy tra cứu tài liệu chưa được ứng dụng. Hệ thống máy vi tính đã được
nối mạng xong chưa có đề án ứng dụng Thư viện điện tử nên cán bộ, giảng viên,
học viên chưa khai thác hiệu quả tiện ích của nó; cơ sở vật chất bảo quản tài
liệu còn đơn giản, hiện nay mới có hệ thống giá sách được trang bị, còn lại tủ
bảo quản và lưu sách đã cũ…Thực tế trên dẫn đến chất lượng phục vụ của Thư viện
chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay.
Thứ hai: Phương thức phục vụ của Thư viện chưa đáp ứng nhu cầu
khai thác thông tin của độc giả.
Độc giả của Thư viện là
đội ngũ cán bộ, giảng viên, học viên ở các trình độ khác nhau; lĩnh vực công
tác đa dạng;… thông tin khai thác cần đảm bảo tính khoa học, tính lịch sử, hiện
tại, tương lai, trong khi quỹ thời gian dành cho việc tìm kiếm không nhiều.
Thực tế, việc tìm kiếm thông tin trong thư viện truyền thống hiện nay mất nhiều
thời gian, điều đó đòi hỏi Thư viện trường cần hiện đại hơn đảm bảo cung cấp
thông tin nhanh chóng, thuận lợi, phù hợp với đối tượng. Xây dựng Thư viện điện tử là cần thiết để đổi
mới phương pháp phục vụ, một xu hướng tất yếu của thời đại công nghệ thông
tin.
Thứ ba: Về công tác quản lý Thư viện hiện nay.
Hoạt động
truyền thông, vận động nâng cao ý thức văn hóa đọc thông qua các hình thức chưa
được khai thác rộng rãi; có những thông tin cập nhật, quý giá trên thư viện
chưa được độc giả cập nhật thường xuyên.
Trường Chính
trị Trường Chinh tỉnh Nam Định là một trong hệ thống các trường Chính trị cấp
tỉnh đang phấn đấu xây dựng trường chuẩn. Điều đó đòi hỏi Thư viện cần hoàn
thiện, phù hợp với tình hình mới, vì vậy trong thời gian tới nhà trường cần:
Thứ
nhất: Hoàn thiện cơ sở vật chất
cho Thư viện
Hàng năm, nhà trường
tiếp tục bổ sung cho nguồn tài liệu; đồng thời có chủ trương xin tỉnh quan tâm
đầu tư kinh phí để xây dựng thư viện điện tử hiện đại đáp
ứng yêu cầu cung cấp thông tin hiện nay.
Thứ hai: Nâng cao ý thức văn hóa đọc trong nhà trường
Hiện nay,
việc tìm kiếm thông tin trong thư viện của độc giả chưa thường xuyên. Để khai
thác hiệu quả thông tin quý giá trong thư viện, trên cơ sở thông tin các tài
liệu, đầu sách mới của thư viện gửi các khoa, phòng, lãnh đạo các đơn vị thông
báo để cán bộ, nhân viên biết được để lên thư viện tìm kiếm; đồng thời, trong
quá trình giảng dạy tại trường, các giảng viên giới thiệu các tài liệu quý
trong thư viện liên quan đến bài học để học viên cập nhật làm giàu tri thức,
phục vụ ngày càng tốt hơn. Khi có sách mới, tài liệu liên quan đến chuyên môn
của các đơn vị, độc giả cần tham mưu cho lãnh đạo nhà trường để trang bị cho
Thư viện.
Đổi mới hoạt
động thư viện đòi hỏi sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám đốc,
sự phối hợp giữa các bộ phận trong Trường, sự nhận thức của mỗi cán bộ, giảng
viên, học viên nhà trường. Điều đó làm cho Thư viện ngày càng hoàn thiện góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho tỉnh nhà./.
ĐỔI MỚI NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU THỰC TẾ CỦA
HỌC VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH HIỆN NAY
ThS. TRẦN THÙY DƯƠNG
Phó
Trưởng phòng Đào tạo
Thực hiện nội dung chương trình đào tạo của Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh đối với các lớp Cao cấp lý luận chính trị và Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính, từ năm 2013 trở
lại đây, Trường Chính trị Trường Chinh luôn
xác định nghiên cứu thực tế là nhiệm vụ quan trọng của mỗi học viên để hoàn
thành chương trình học tập toàn khoá.
Việc đi nghiên cứu thực tế đối
với học viên các lớp tại trường có ý nghĩa sâu sắc. Đến mỗi địa phương, học
viên được nghe báo cáo về tình hình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, được
đến thăm một số đơn vị tiêu biểu, thăm một số di tích gắn liền với lịch sử của
dân tộc như nhà tưởng niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh, Khu di tích Đá Chông
K9, Đền Hùng, quê Bác...; được giao lưu, trao đổi kinh nghiệm về công tác quản
lý, thực thi nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức tại các địa phương. Đây
chính là những nội dung nghiên cứu rất thiết thực đối với học viên, giúp học
viên củng cố thêm kiến thức lý luận, làm phong phú thêm kinh nghiệm trong công
việc. Hoạt động giao lưu học hỏi giúp học viên nâng cao ý thức, trách nhiệm gắn
với vị trí, việc làm đang đảm nhiệm. Các chuyến đi học tập nghiên cứu thực tế
trong và ngoài tỉnh giúp học viên gắn giữa lý luận vào thực tiễn. Qua đó, học
viên không những được nâng cao về chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, được mở rộng
tầm nhìn, tầm hiểu biết, làm giàu năng lực và phong cách quản lý cho bản thân,
hiểu biết về lịch sử dân tộc, càng yêu quê hương, đất nước, mong muốn được đóng
góp, cống hiến. Nhiều cán bộ quản lý đã trưởng thành sau khoá học, họ đã biết
đem những kiến thức và hiểu biết thu lượm được sau khóa học và sau đợt đi thực
tế để đổi mới công tác quản lý, góp phần thay đổi diện mạo của địa phương nơi
học viên công tác. Thông qua nghiên cứu thực tế đã góp phần tăng cường mối quan
hệ gắn kết giữa nhà trường với đơn vị cơ sở.
Việc tổ chức
các chuyến đi nghiên cứu thực tế được thực hiện theo đúng quy trình, quy định của Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ Nam Định.
Đối
với các lớp Cao cấp lý luận chính trị
Căn cứ vào
nội dung chương trình đào tạo của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học
viện Chính trị khu vực 1, giáo viên chủ nhiệm lớp tham mưu cho Ban chỉ đạo xây
dựng kế hoạch nghiên cứu thực tế. Ban chỉ đạo lớp ra quyết định và đã tổ chức
thành công nhiều chuyến đi thực tế cho học viên. Đoàn nghiên cứu thực tế do đồng
chí Giám đốc nhà trường, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban chỉ đạo lớp học làm
trưởng Đoàn. Tham gia cùng Đoàn còn có các đồng chí trong Ban chỉ đạo lớp học,
cùng toàn thể học viên của lớp. Đoàn đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu thực tế
tại nhiều tỉnh. Tại đó, Đoàn nghiên cứu thực tế đã trao đổi với lãnh đạo địa
phương, được nghe giới thiệu những mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả của
các cơ quan, đơn vị.
Đối
với các lớp Trung cấp lý luận chính trị - hành chính
Nghiên
cứu thực tế là nội dung trong chương trình học tập của các lớp Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính. Sau khi thống nhất với tập thể lớp về kế hoạch,
nội dung, thời gian, địa điểm đi thực
tế, chủ nhiệm lớp và Ban cán sự lên kế hoạch một cách cụ thể trình Ban Giám
đốc. Tùy nội dung và chuyên ngành nghiên cứu, Ban Giám đốc phân công lãnh đạo
và giảng viên các đơn vị khoa cùng chủ nhiệm lớp chỉ đạo nội dung nghiên cứu
thực tế.
Sau
chuyến đi thực tế, học viên viết báo cáo thu hoạch về những vấn đề mà họ tâm
đắc nhất, học tập được qua kinh nghiệm tại địa phương, nơi đoàn đến.
Tuy
nhiên, hoạt động nghiên cứu thực tế của học viên tại trường hiện nay còn tồn
tại một số hạn chế. Một số nội dung nghiên cứu thực tế còn chung chung, chưa
bám sát vào tình hình thực tế của địa phương. Có học viên chưa thấy được ý
nghĩa của việc đi nghiên cứu thực tế, chưa xây dựng được kế hoạch cho cá nhân
mình. Có ý kiến cho rằng nghiên cứu thực tế là không cần thiết. Những hạn chế
trên có nguyên nhân là do học viên chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của việc đi
nghiên cứu thực tế; các giảng viên đi cùng đoàn chưa phát huy vai trò định
hướng, gợi mở vấn đề nghiên cứu; kinh phí cho hoạt động nghiên cứu thực tế còn
hạn chế nên học viên phải tự chủ động, phần nào ảnh hưởng tới kết quả nghiên
cứu.
Để
hoạt động nghiên cứu thực tế của học viên đạt hiệu quả cao trong thời gian tới,
cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho học viên về tầm quan trọng của hoạt động nghiên cứu
thực tế góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Từ đó, mỗi học
viên tự giác, tích cực tham gia tốt hoạt động nghiên cứu thực tế nhằm phát huy
tính sáng tạo và khả năng vận dụng, xử lý tình huống tại cơ quan, đơn vị công
tác.
Hai là, để công tác nghiên cứu thực tế
đạt hiệu quả, nhà trường xác định cho giảng viên, học viên hiểu rõ mục đích của
nhiệm vụ nghiên cứu thực tế, yêu cầu một số nội dung và cách thức tiếp cận. Từ
đó, có sự chuẩn bị chu đáo, tổ chức thực hiện theo đúng kế hoạch đã được Ban
Giám đốc phê duyệt. Sau chuyến đi có rút kinh nghiệm và đánh giá kết quả cụ
thể.
Ba là, xây dựng kế hoạch nghiên cứu
thực tế cho cán bộ, giảng viên và học viên theo từng năm học phù hợp với vị
trí, đối tượng học viên các lớp theo chương trình đào tạo
của nhà trường, địa điểm, nội dung nơi
đến nghiên cứu.
Như vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng tại nhà trường, cần đẩy mạnh hoạt
động nghiên cứu thực tế giúp cho các giảng viên, học viên nắm bắt được thực
tiễn. Từ đó gắn kết kiến thức lý luận với thực tiễn, làm cho học viên thấy được
ý nghĩa của việc tham gia học tập các nội dung, chương trình đào tạo tại nhà
trường, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị
Trường Chinh./.
TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN QUÂN SỰ TRONG ĐƯỜNG
LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG XÂM LƯỢC CỦA TRIỀU TRẦN THẾ KỶ XIII (1258-1288)
PHẠM PHÚ THIỆM
Nguyên
Trưởng khoa Xây dựng Đảng
Trong vòng 30 năm (1258-1288), với 3
cuộc kháng chiến chống đế chế Mông - Nguyên, dân tộc ta đã làm nên một chiến
công thần kỳ, vĩ đại; đập tan đội quân hùng mạnh vào bậc nhất thế giới lúc bấy
giờ. Trong ba lần đưa quân xâm lược nước ta, đặc biệt là hai lần sau năm 1258
và 1288 đế chế Mông - Nguyên đứng đầu là Hốt Tất Liệt đã huy động một lực lượng
quân sự hùng hậu với những tướng tài ba ồ ạt tiến công Đại Việt từ nhiều phía
với mọi thủ đoạn ngang ngược vừa tàn bạo. Đội quân này vừa mới xóa bỏ “Thiên
triều” Nam Tống, đặt ách thống trị trên toàn lãnh thổ Trung Quốc rộng lớn, để
rồi dốc cả những gì lấy được của “Thiên triều” vào cuộc xâm lăng Đại Việt. Nhưng
với sức mạnh của cả dân tộc được huy động, với những cuộc đấu trí, đấu lực vô
cùng nghiệt ngã, cuối cùng nhân dân Đại Việt đã chiến thắng, bảo vệ trọn vẹn
nền độc lập, chủ quyền của dân tộc, mở ra một thời kỳ thanh bình thịnh trị của
đất nước. Đúng như lời Trần Nhân Tông đã khẳng định trong ngày khải hoàn “Non sông muôn thuở vững âu vàng”.
Trong số những nguyên nhân dẫn đến
thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ của nhân dân ta trong
suốt 30 năm (1258-1288) chống lại đế chế Mông - Nguyên phải kể đến tư tưởng
nhân văn quân sự trong đường lối kháng chiến chống xâm lược của Triều Trần. Tư
tưởng đó được thể hiện:
Thứ nhất: Triều Trần đã phát huy tinh thần đoàn kết, truyền
thống chống ngoại xâm của dân tộc. Để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh giữ nước,
Trần Nhân Tông đã ý thức rất sâu sắc về thế trận lòng dân. Do vậy Trần Nhân
Tông đã tổ chức hội nghị Bình Than (1282) gồm các tướng sỹ để bàn kế giữ nước.
Đặc biệt đến năm 1285, Trần Nhân Tông đã tổ chức hội nghị Diên Hồng gồm các bô
lão đại diện cho thần dân khắp cả nước quy tụ về, để rồi từ Diên Hồng vang lên
tinh thần quyết chiến. Lịch sử ngàn năm của Việt Nam đã khẳng định: Mỗi khi sức mạnh
nhân dân vào trận thì không một thế lực nào có thể vượt qua để chiến thắng. Lúc
Tổ quốc lâm nguy, tầng lớp quý tộc Trần đã đoàn kết thành một khối, Hưng Đạo
Vương không vì mối thù nhà mà bỏ nghĩa. Ông không theo di mệnh của cha
cùng triều đình và toàn bộ một lòng một dạ chiến đấu bảo vệ đất nước. Được giao
trọng trách đứng đầu toàn quân, Hưng Đạo Vương đã có nhiều kế sách về chiến
lược đại đoàn kết dân tộc, ông khuyên vua hãy “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ
nước”. Hai tướng Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải vốn bất hòa với nhau
nhưng trước vận mệnh của dân tộc như “Ngàn
cân treo sợi tóc” đã đoàn kết với nhau chung lo việc nước. Trần Khánh Dư,
một vị tướng tài ba dù có lỗi lầm trong quá khứ vẫn được Trần Nhân Tông giao
làm phó tướng, phụ trách toàn bộ thủy quân… Những tấm gương sáng về tư tưởng
nhân văn của các danh nhân, danh tướng đã giúp Triều Trần tập hợp được hết thảy
các tầng lớp nhân dân đoàn kết thành một khối bước vào cuộc chiến tranh giữ
nước.
Do vậy cuộc chiến tranh vệ quốc thế
kỷ XIII là cuộc chiến tranh “Cả nước đánh giặc”, “Trăm họ là binh”, một cuộc
chiến tranh nhân dân để bảo tồn dân tộc. Một cuộc chiến tranh như thế, khiến
truyền thống yêu nước, quật cường của dân tộc được phát huy cao độ, từ đó huy
động được toàn dân tham gia kháng chiến. Đội quân Triều Nguyên khi xâm lăng Đại
Việt không chỉ phải đọ sức với quân đội Triều Trần mà còn phải đương đầu với cả
một dân tộc đã sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Khắp nơi trên đất nước Đại
Việt, quân Nguyên đến đâu đều bị chặn đánh ở đó. Việc nhân dân tích cực thực
hiện “Vườn không nhà trống” đã góp phần đẩy đạo quân xâm lược luôn luôn lâm vào
tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng. Những đạo dân binh miền núi là lực
lượng đầu tiên chạm trán với địch, ngày đêm quấy rối sau lưng địch, hai lần góp
công quan trọng tiêu diệt những tên Việt gian phản quốc. Hai anh em là Hà Đặc
và Hà Chương đã lập được nhiều chiến công; sau cuộc kháng chiến lần thứ III, Hà
Tất Đăng được phong hầu vì có công lớn. Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh cùng đội
dân binh của mình gây cho giặc nhiều tổn thất và khi thời cơ đến đã phối hợp
với quân chủ lực phản công, giải phóng kinh thành Thăng Long. Trong cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại này, quân đội các vương hầu mà lực lượng chủ yếu là nô tì,
đã thanh gia tích cực, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng. Nguyễn Địa Lô,
Yết Kiêu, Dã Tượng là những gia nô của Hưng Đạo Vương đã lập được nhiều chiến
công. Nguyễn Địa Lô đã bắn chết tên Việt gian Trần Kiện, Yết Kiêu đã biểu hiện
lòng can đảm và tính kỷ luật khi cấm thuyền đợi Trần Quốc Tuấn ở bãi than.
Thứ hai: Tư tưởng nhân văn quân sự thời Trần còn được biểu
hiện ở tinh thần quyết chiến quyết thắng của toàn dân để bảo tồn dân tộc.
Tinh thần này được phản ánh với rất
nhiều sử liệu. Trần Thủ Độ đã nói với Trần Thái Tông: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”, Trần Quốc Tuấn tâu
với Trần Nhân Tông: “Trước hết hãy chém
đầu thần rồi sau hãy hàng”. Người thiếu niên Trần Quốc Toản, bực bội vì
không được tham dự hội nghị Bình Than đã tự mình lập đội quân cảm tử với lá cờ
thêu sáu chữ “Phá cường địch báo hoàng ân”. Đội quân này khi ra trận luôn luôn
xông lên phía trước giáp mặt với quân thù. Trần Bình Trọng bị giặc bắt không
chịu đầu hàng khảng khái thét vào mặt kẻ thù: “Ta là làm quỷ nước Nam
chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Những người lính đã tự động thích vào
tay mình hai chữ “Sát Thát” trước lúc ra trận. Những tiếng hô “đánh” của các bô lão vang lên ở Điện
Diên Hồng mùa Đông năm Giáp Thân (tháng 01/1285) thể hiện quyết tâm kháng chiến
không gì lay chuyển được của toàn dân trước kẻ thù xâm lược.
Có thể nói tư tưởng nhân văn quân sự
là nhân tố chủ yếu để Triều Trần xây dựng được đường lối kháng chiến đúng đắn.
Nhờ vậy sức mạnh đoàn kết dân tộc ở thế kỷ XIII đã phát huy đến mức cao nhất để
nhân dân Đại Việt chiến thắng đội quân xâm lược Mông - Nguyên, bảo vệ trọn vẹn
nền độc lập tự chủ của dân tộc, mở ra một thời kỳ thanh bình, thịnh trị của đất
nước, thời kỳ “Non sông muôn thưở vững ân
vàng”./.
CỰU CHIẾN BINH TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG
CHINH
VỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÀ
TRƯỜNG
CN. NGUYỄN VĂN ĐỨC
Phó
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh
Hội Cựu chiến binh Trường Chính trị Trường Chinh là tổ
chức Hội cơ sở trực thuộc Hội Cựu chiến binh Khối các cơ quan tỉnh Nam Định.
Trải qua cuộc chiến tranh ác liệt đầy hy sinh, gian
khổ giành hòa bình, độc lập dân tộc, những anh “bộ đội cụ Hồ” trở về đảm nhận nhiệm vụ mới, tiếp tục cống hiến cho
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Những đóng góp to lớn của các anh đã
được Đảng, Nhà nước, nhân dân ghi nhận.
Ngày 06/12/1989, Bộ Chính trị ra Quyết định thành lập
Hội Cựu chiến binh Việt Nam, tạo cơ sở cho sự hình thành và phát triển Hội Cựu
chiến binh ở các địa phương, cơ quan, tổ chức. Hội Cựu chiến binh Trường Chính
trị Trường Chinh cũng từ đó được hình thành và phát triển. Các Cựu chiến binh
Trường Chính trị Trường Chinh là những người đã được rèn luyện trong quân đội,
được tôi luyện trong chiến tranh cách mạng, mỗi người đều có chung phẩm chất
truyền thống “bộ độ cụ Hồ”, được làm
việc ở cùng một mái trường, phẩm chất ấy đã gắn kết họ với nhau thành Hội Cựu
chiến binh trong nhà trường.
Ngày 20/12/2004, Hội Cựu chiến binh Trường Chính trị
Trường Chinh chính thức được Hội Cựu chiến binh Đảng ủy khối Dân chính Đảng
(nay là Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh Nam Định) chuẩn y thành lập, với số lượng
17 hội viên. Về tổ chức có Ban Chấp hành Hội gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy
viên Ban Chấp hành, trong đó hội viên Cựu chiến binh có 03 đồng chí là lãnh đạo
trường, 03 đồng chí là Thường vụ Đảng ủy, 07 đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng
bộ trường, 02 đồng chí là trưởng phòng, 03 đồng chí là trưởng khoa; Ban Chấp
hành Công đoàn trường có 02 đồng chí.
Công tác trong môi trường giáo dục lý luận chính trị,
nhiều cựu chiến binh đang đảm trách những cương vị chủ chốt trong cấp ủy Đảng,
chính quyền, đoàn thể, trực tiếp tham gia vào quá trình lãnh đạo, quản lý, điều
hành mọi mặt hoạt động của nhà trường, họ đều nắm vững chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp tham gia truyền đạt các Nghị quyết
của Đảng, tổ chức tuyên truyền đưa Nghị quyết vào cuộc sống, lãnh đạo thực hiện
thắng lợi Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Tham gia xây dựng, hoạch định các chủ
trương, kế hoạch, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ chính
trị, thực hiện thắng lợi chủ trương, kế hoạch của nhà trường, góp phần không
nhỏ cùng toàn thể cán bộ, đảng viên, quần chúng xây dựng Đảng bộ nhà trường
nhiều năm liên tục đạt Đảng bộ “trong
sạch, vững mạnh, tiêu biểu”, lập lên những thành tích xuất sắc trong xây
dựng và phát triển nhà trường những năm qua và góp vai trò quan trọng trong
việc bồi dưỡng thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý kế cận, tiếp tục sự nghiệp xây
dựng nhà trường.
Từng hội viên ở mỗi cương vị công tác đều phát huy tốt
truyền thống “bộ đội cụ Hồ”, luôn
gương mẫu đi đầu trong mọi hoạt động của nhà trường. Tích cực tham mưu cho lãnh
đạo nhà trường xây dựng các văn bản chỉ đạo về lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
như: công tác xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ, xây dựng kế hoạch chiến đấu
bảo vệ cơ quan, công tác huấn luyện Dân quân tự vệ, xây dựng kế hoạch “phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.
Hằng năm lực lượng tự vệ nhà trường tham gia kiểm tra bắn đạn thật đều đạt khá,
giỏi. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn nhà trường luôn được giữ
vững, được các cơ quan công an địa phương đánh giá là “cơ quan đạt tiêu chuẩn an toàn về an ninh trật tự”.
Ban Chấp hành Hội tích cực tham mưu cho lãnh đạo nhà
trường thường xuyên quan tâm tới việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho hội viên, động viên hội viên tích cực tham gia các phong trào văn nghệ, thể
thao, các hoạt động tri ân, từ thiện, như: góp quỹ “nghĩa tình biển đảo”; gây “quỹ
nghĩa tình đồng đội” 100.000đồng/năm/hội viên; tổ chức đi thăm, động viên,
tặng quà các gia đình thương binh, liệt sỹ là cán bộ, viên chức nhà trường nhân
ngày thương binh, liệt sỹ 27/7… Tham gia hoạt động phong trào, nhiều đồng chí
đạt giải (nhất, nhì, ba) trong các đợt thi đấu cầu lông khối các cơ quan ban
ngành trong tỉnh, góp phần vào thành tích hoạt động phong trào của nhà trường.
Được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường, Hội đã tổ chức nhiều đợt cho hội viên
đi thăm các di tích lịch sử cách mạng, như: thăm Thành cổ Quảng trị, Nghĩa
trang Trường Sơn, Ngã ba Đồng Lộc, thăm viếng Mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp (tại
các tỉnh Miền Trung), thăm Di tích lịch sử Điện Biên Phủ, nhà tù Sơn La, cột cờ
Lũng Cú (tại các tỉnh miền núi phía Bắc) và nhiều di tích khác, giúp cho hội
viên được trải nghiệm thực tế sinh động, góp phần nâng cao đời sống tinh thần,
qua đó nhằm giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ.
Từ thực tiễn hoạt động của Hội cho thấy các cựu chiến
binh thực sự là nòng cốt trong mọi hoạt động của nhà trường và là chỗ dựa tin
cậy của cán bộ, quần chúng. Bằng sự đóng góp xứng đáng vào quá trình xây dựng
và trưởng thành của nhà trường, nhiều hội viên cựu chiến binh đã đạt những phần
thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể trao tặng, như: Danh
hiệu Nhà giáo ưu tú; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh, của
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Công đoàn viên chức Việt Nam; nhiều đồng chí
trong nhiều năm liên tục đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp tỉnh, cấp cơ sở.
Sau hơn 10 năm kể từ khi chính thức được thành lập,
với 2 nhiệm kỳ Đại hội, các cựu chiến binh đến tuổi lần lượt về nghỉ theo chế
độ hưu trí, tạo nên sự biến động cả về số lượng và chất lượng hội viên. Bước
vào năm 2016 số lượng hội viên của Hội gồm 07 đồng chí, trong đó. Ban Giám đốc
có 01 đồng chí, lãnh đạo phòng 02 đồng chí, các cựu chiến binh trẻ tuy đã được
rèn luyện trong quân đội, nhưng kinh nghiệm hoạt động thực tiễn chưa nhiều, ảnh
hưởng lớn tới chất lượng hoạt động của Hội. Để vượt qua khó khăn, đòi hỏi trước
hết mỗi hội viên cần hiểu rõ giá trị những thành quả mà các thế hệ cựu chiến
binh đã cống hiến để phát huy truyền thống, tiếp tục xây dựng Hội Cựu chiến
binh nhà trường vững mạnh. Thời gian tới Hội Cựu chiến binh cần phải:
Một là:
Quán triệt và nâng cao nhận thức về vai trò, nhiệm vụ của Hội, tiếp tục vận
động hội viên giữ vững và phát huy bản chất truyền thống “bộ đội cụ Hồ”, nỗ lực học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính
trị, tinh thần trách nhiệm, đoàn kết giúp nhau vượt qua khó khăn, hoàn thành
tốt các nhiệm vụ được giao. Tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và các
đoàn thể.
Hai là:
Tích cực phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, tăng cường giáo
dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ bằng nhiều hình thức. Thường xuyên
quan tâm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, đẩy mạnh các hoạt động tri
ân, hoạt động tình nghĩa, từ thiện.
Ba là:
Đẩy mạnh các phong trào thi đua “Cựu
chiến binh gương mẫu”, gắn phong trào thi đua của Hội với các phong trào
thi đua của nhà trường đảm bảo thiết thực, hiệu quả. Phát huy truyền thống “bộ đội cụ Hồ” phải gắn với việc “học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Xây dựng Hội thực sự vững mạnh, xứng đáng là
lực lượng tin cậy của Đảng bộ, cán bộ, viên chức nhà trường./.
ĐOÀN THANH NIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG
CHINH
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG “DẠY TỐT, HỌC TỐT,
PHỤC VỤ TỐT”
ThS. VŨ QUỐC MẠNH
Phó
Bí thư đoàn trường
Đoàn
thanh niên Trường Chính trị Trường Chinh là tổ chức đoàn cơ sở trực thuộc Đoàn
Khối các cơ quan tỉnh Nam Định. Lịch sử hình thành và phát triển của Đoàn
trường gắn liền với lịch sử truyền thống 60 năm xây dựng và trưởng thành của
nhà trường (9/6/1956-9/6/2016). Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng Ủy, Ban Giám Đốc nhà trường, Đoàn thanh niên đã không ngừng lớn mạnh
và trưởng thành về mọi mặt, đóng góp vào phát huy truyền thống “Dạy tốt, học tốt, phục vụ tốt” của nhà
trường.
Hiện
nay, Đoàn thanh niên nhà trường có 23 đồng chí, chiếm 36,5% tổng số cán bộ công
chức, viên chức của nhà trường. Trong đó 17/23 (73,9%) đồng chí có mã ngạch
giảng viên, 6/23 (26,1%) đồng chí có mã ngạch chuyên viên. Bên cạnh đó, trình
độ của đoàn viên thanh niên nhà trường cũng không ngừng được nâng cao, 6/23
(26,1%) đồng chí có trình độ thạc sĩ, 15 (65,2%) đồng chí có trình độ đại học
và 2/23 (8,7%) đồng chí có trình độ trung cấp. Về tổ chức, Đoàn trường có một
Ban Chấp hành gồm 7 đồng chí, với cơ cấu 01 Bí thư, 01 Phó Bí thư và 05 đồng
chí Ủy viên Ban Chấp hành.
So
với những năm trước đây số lượng đoàn viên thanh niên là hơn hẳn, chất lượng
ngày càng được nâng cao, đây là một thuận lợi lớn trong mọi hoạt động của Đoàn
trường. Với tinh thần và lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, Đoàn viên thanh niên
nhà trường luôn xung kích trên mọi mặt trận, đóng góp to lớn vào việc gìn giữ
và phát huy truyền thống “Dạy tốt, học
tốt, phục vụ tốt” của nhà trường. Trong những năm qua, Đoàn thanh niên có
nhiều đồng chí được nhà trường tin tưởng cử tham gia các hội thi giảng viên dạy
giỏi và đều đạt thành tích cao như: “Hội thi giảng viên dạy giỏi cấp Học viện” do Học Viện Chính trị quốc Gia Hồ
Chí Minh tổ chức; hay “Hội thi giáo viên dạy giỏi trung cấp chuyên nghiệp” do Sở Giáo dục và Đào tạo tổ
chức. Có thể nói, trong các sự kiện lớn của Trường liên quan đến chuyên môn
những năm qua, đoàn viên thanh niên luôn tham gia với tinh thần cao nhất và đạt
được những thành tích to lớn.
Ngoài những kết quả nêu trên, đoàn
viên thanh niên nhà trường luôn có ý thức không ngừng học tập, nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong thực hiện nhiệm
vụ của nhà trường. Nhiều đồng chí đã và đang theo học lớp cao học, lớp chuyên
viên và các lớp trung cấp lý luận chính trị - hành chính. Các đồng chí đoàn
viên cũng tích cực nghe giảng các lớp cao cấp lý luận chính trị mở tại trường,
thông qua các bài giảng để cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
Không chỉ dừng lại ở các hoạt động chuyên
môn, đoàn viên thanh niên nhà trường còn tích cực tham gia các hoạt động bề nổi
do Đoàn cấp trên và Đoàn trường phát động như: Các hoạt động văn nghệ,
giao lưu thể thao, hoạt
động tình nguyện, hoạt
động giữ gìn vệ sinh cơ quan xanh, sạch đẹp. Trong các hội thi văn nghệ, thể
thao do Đoàn khối tổ chức, Đoàn trường luôn tham gia đông đủ và đạt nhiều thành
tích cao như hội thi “Tiếng hát tháng 5”,
hội thi “Cắm hoa và nấu ăn”- Cụm các
trường chuyên nghiệp, kỷ niệm ngày 20/11/2015 với chủ đề
“Tri ân thầy cô”. Đoàn viên thanh niên nhà trường tích
cực tham gia các hoạt động văn nghệ, thể thao chào mừng các ngày lễ lớn của trường
như ngày thành lập trường ngày 9 - 6, chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.
Phong trào giữ gìn vệ sinh cơ quan xanh - sạch - đẹp cũng được đoàn viên thanh
niên quan tâm và tham gia đầy đủ. Với những thành tích mà Đoàn trường đạt được
trong năm 2015, Đoàn thanh niên nhà trường vinh dự nhận Cờ thi đua của Đoàn
khối các cơ quan tỉnh Nam Định.
Bên cạnh
những thuận lợi, Đoàn thanh niên nhà trường với đội ngũ cán bộ, giảng viên trẻ
còn không ít những hạn chế nhất định. Trong công tác giảng dạy, đội ngũ đoàn
viên là giảng viên trẻ nên kinh nghiệm giảng dạy còn ít và thiếu kiến thức thực
tiễn. Trong các hoạt động xung kích thực hiện nhiệm vụ, đặc biệt là nhiệm vụ
chính trị của nhà trường, Đoàn trường chưa chú trọng nhiều đến các hoạt động
nâng cao trình chuyên môn, nghiệp vụ mà chú trọng nhiều đến các hoạt động bể
nổi, tức là chưa đi vào chiêu sâu của hoạt động. Ý thức tự giác, chủ động của
một số đoàn viên, thanh niên trong các hoạt động còn chưa cao, điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động đoàn.
Để khắc phục hạn chế và tiếp tục phát huy
truyền thống “Dạy tốt, học tốt, phục vụ tốt”, hướng tới kỷ niệm 60 năm
thành lập Trường, Đoàn thanh niên nhà trường xác định phương hướng hoạt động
trong những năm tới với những nội dung sau:
Thứ
nhất, đoàn viên thanh niên nhà trường không ngừng rèn luyện,
tu dưỡng phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng. Không ngừng “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời
Bác”. Có ý thức học tập nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong thực hiện
nhiệm vụ của nhà trường. Phấn đấu trở thành
người cán bộ trẻ vừa “ hồng” vừa “chuyên”, xứng đáng với niềm tin mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh kính yêu dành cho thế hệ trẻ.
Thứ hai, xung kích trên mọi mặt trận, như Bác Hồ nói: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh
niên đi đầu”, đặc biệt là trong đổi mới phương pháp dạy - học, nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; phải thường xuyên nghiên cứu cập nhật
thông tin lý luận và thực tiễn bổ sung kịp thời vào bài giảng, đổi mới phương
pháp dạy - học theo hướng tích cực hóa hoạt động người học, ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy - học; đảm bảo quy trình lên lớp và kiểm tra đánh giá kết
quả học tập rèn luyện của học viên. Mỗi Đoàn viên thanh niên là giảng viên phải
có công trình nghiên cứu khoa học, có nhiều bài viết nghiên cứu lý luận và thực
tiễn trên trang thông tin điện tử của nhà trường và các báo, tạp chí Trung
ương, địa phương; tích cực tham gia các hội thảo khoa học cấp khoa, trường; đi
nghiên cứu thực tế có hiệu quả thiết thực.
Thứ
ba, hưởng ứng các phong trào do Đoàn cấp trên và Đoàn
trường tổ chức như phong trào “5 xung kích
phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc”, “4 đồng hành với thanh niên lập
thân, lập nghiệp”, các phong trào tình
nguyện, các hoạt động nhân đạo…Tích cực tham gia
các hoạt động văn nghệ, thể thao để rèn luyện thể chất, xây dựng đời sống văn
hóa trong và ngoài nhà trường tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng môi
trường cảnh quan nhà trường xanh - sạch - đẹp.
Để thực hiện những nội dung trên, một mặt đòi hỏi Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nhà
trường cần phải tổ chức nhiều hoạt động thiết thực và phong trào thi đua sôi
nổi trong giảng dạy, học tập, rèn luyện và công tác để tạo môi trường, thu hút,
động viên các đoàn viên thể hiện năng lực và sự cống hiến của mình. Bên cạnh đó
Đoàn trường cũng rất mong Đảng ủy, Ban Giám đốc cũng như lãnh đạo các khoa,
phòng của nhà trường tạo điều kiện ủng hộ về vật chất và tinh thần để đoàn viên
thanh niên nhà trường có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao./.
CÁN BỘ NỮ
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH VỚI PHONG TRÀO THI ĐUA “GIỎI VIỆC NƯỚC, ĐẢM VIỆC
NHÀ”
CN. NGUYỄN
THỊ DUNG
Trưởng khoa Dân vận
Thi
đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” là phong trào thi đua mang tính đặc thù của
giới nữ do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chính thức phát động từ năm 1989.
Những năm qua, phong trào đã phát triển mạnh trong giới nữ nói chung, trong nhà
trường mang tên cố Tổng Bí thư Trường Chinh nói riêng. Trường Chính trị Trường Chinh, 60 năm qua,
đội ngũ cán bộ nữ đã từng bước trưởng thành và có những đóng góp tích cực trong
chặng đường phát triển của nhà trường. Thực hiện sự chỉ đạo của Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam, Liên đoàn Lao động tỉnh và sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Chấp
hành Công đoàn trường, phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” đã
được phát động sâu rộng trong nữ cán bộ, viên chức nhà trường.
Mỗi giai đoạn phát triển của nhà
trường đều có những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, mỗi chị em trên cương vị
công tác đã nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, khẳng định vai trò của
mình trong gia đình và ngoài xã hội.
1. Nội dung thi đua “Giỏi việc nước”, chị em nữ cán bộ,
viên chức của nhà trường đã luôn cố gắng hết mình trong thực hiện nhiệm vụ
chính trị
Để xứng đáng với danh hiệu “Giỏi
việc nước”, chị em nữ cán bộ nhà trường đã căn cứ vào tính chất công việc được
phân, giao để hoàn thành nhiệm vụ. Chị em phục vụ ở các phòng chức năng đã rất
cố gắng, không quản ngại khó khăn, mưa, nắng bám lớp, bám trường; không quản
ngại sớm, trưa, chiều, tối, phục vụ cần mẫn... đã giúp nhà trường luôn sạch sẽ,
gọn gàng, trường ra trường, lớp ra lớp và tất cả các đối tượng đều được phục vụ
chu đáo, tận tình. Chị em trong bộ phận giảng dạy cũng luôn cố gắng hết mình
với công việc. Vượt lên trên tất cả mọi khó khăn về đường xá xa xôi; về đối
tượng người học là người lớn có kinh nghiệm, có bản lĩnh; về trình độ và kinh
nghiệm công tác chưa nhiều..., chị em đã không ngừng học tập nâng cao trình độ,
rèn đức, luyện tài nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy.
Kết quả bình xét hàng năm, 100%
chị em nữ cán bộ nhà trường đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tỷ lệ chị em hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ khá cao (năm 2015 đạt 70% số danh hiệu). Nhiều chị đạt
danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, nhiều chị được Chủ tịch UBND tỉnh tặng
Bằng khen. Hiện nhà trường đã có 05 chị được Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh tặng kỷ niệm chương vì có thành tích 20 năm công tác tại trường Chính trị.
Khối giảng viên có 04 chị đã tham dự Hội thi giảng viên dạy giỏi và đạt danh
hiệu giảng viên dạy giỏi cấp Học viện (do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh tổ chức 3 năm/lần). Tham gia thực hiện Đề tài khoa học cấp tỉnh (năm
2013-2014), trong số 09 thành viên, có 05 chị ở các đơn vị khoa, phòng. Sự đóng
góp công sức, trí tuệ của các chị đã giúp Đề tài khoa học cấp tỉnh của nhà
trường được nghiệm thu đảm bảo đúng tiến độ và đạt kết quả tốt.
Bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ
được phân công, chị em còn luôn cố gắng học tập, nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Tổng số cán bộ được cử đi đào tạo trình độ thạc sỹ từ 2010 đến 2015 là 09
người, trong đó nữ có 07 người.
Với sự cố gắng nỗ lực, các chị đã
được quan tâm quy hoạch và bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo của các đơn vị
khoa, phòng. Từ năm 2010 đến 2015, nhà trường tiến hành bổ nhiệm 20 lượt cán
bộ, trong đó, số cán bộ nữ là 14 lượt. Sự quan tâm của lãnh đạo trong bổ nhiệm,
sử dụng cán bộ nữ đã giúp các chị thực hiện tốt vai trò “Giỏi việc nước” trong
nhà trường.
2. Phong trào thi đua “Đảm việc nhà”, chị em nữ cán bộ,
viên chức của nhà trường cũng luôn gương mẫu thực hiện tốt thiên chức làm người
vợ, người mẹ
Xây dựng gia đình “No ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” góp phần phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện mục
tiêu bình đẳng giới cũng là mục tiêu và nhiệm vụ của mỗi chị em trong nhà
trường. Ngoài nhiệm vụ thực hiện trên
thực tế gia đình mình, chị em giảng viên còn là người làm công tác tuyên truyền
đến các đối tượng học viên, tạo sự chuyển biến tích cực đối với đội ngũ cán bộ
nữ tại các cơ quan trong toàn tỉnh.
Nhiều chị đã thực sự tạo được sự
công bằng và bình đẳng ngay trong công việc gia đình: phân công lao động hợp
lý, tạo thói quen cho chồng, con biết chia sẻ công việc, cùng có trách nhiệm
trong việc chăm lo, xây dựng, gìn giữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Một số chị
có hoàn cảnh khó khăn nhưng vượt lên trên hết, các chị đã bằng niềm tin, nghị
lực của mình để nuôi, dạy những đứa con ngoan, học giỏi.
Tổng hợp từ 2010 đến 2015, có
10/10 cháu thi đỗ vào các trường đại học (đạt 100%); hàng năm có khoảng 5% các
cháu đạt giải cấp tỉnh (huyện); hơn 90% các cháu đạt danh hiệu học sinh xuất
sắc. Có nhiều cháu giữ vững danh hiệu khen cao trong nhiều năm liên tục.
Thành tích đạt được trong học tập
của các cháu đã làm giảm bớt đi những âu lo, làm các chị thêm phấn chấn, thêm
những niềm vui trong cuộc sống. Thành tích đó có được cũng là thành quả của
công lao dạy dỗ, chăm sóc, vun vén cho các con, cho gia đình của các chị. Bên
cạnh nhiệm vụ được phân công, các chị còn bộn bề với biết bao công việc gia
đình cần quan tâm, chăm lo, gánh vác và các chị đã vượt qua.
Sơ kết phong trào thi đua “Giỏi
việc nước, đảm việc nhà” giai đoạn 2005 - 2010, nữ công nhà trường đã có 05 chị
được Liên đoàn Lao động tỉnh cấp Giấy chứng nhận “Giỏi việc nước, đảm việc
nhà”; tập thể cán bộ nữ nhà trường được Công đoàn viên chức tỉnh tặng danh hiệu
Tập thể xuất sắc trong phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”; Đặc biệt, chị
Trần Thị Len được Công đoàn viên chức tỉnh tặng danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm
việc nhà” giai đoạn 2005 - 2010. Sơ kết phong trào “Giỏi việc nước, đảm
việc nhà” giai đoạn 2010 - 2015 tập thể lao động nữ của nhà trường được Liên
đoàn Lao động tỉnh tặng bằng khen.
Những kết quả trên có được là do
có sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám đốc, Ban Chấp hành Công đoàn đối với chị
em nữ trong nhà trường; do có sự cố gắng nỗ lực của các chị em trong công tác
và trong cuộc sống gia đình. Sự cố gắng của các chị đã và đang khẳng định các
chị em nữ vẫn mãi giữ vững danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Thời gian
tới, các chị em sẽ tiếp tục phát huy truyền thống đã đạt được góp phần xây dựng
nhà trường ngày một khang trang, bề thế, có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh trong thời kỳ mới, xứng danh mái
trường mang tên cố Tổng Bí thư Trường Chinh. Thế hệ các chị mãi giữ vững danh
hiệu “Trung hậu, đảm đang, tài năng, anh
hùng” mà Đảng và Nhà nước phong tặng phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới./.
SOẠN GIÁO
ÁN BỔ TRỢ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CHƯƠNG TRÌNH TRUNG CẤP LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH TỈNH NAM ĐỊNH
ThS. NGUYỄN
THỊ THU HƯỜNG
Trưởng
khoa Nhà nước và Pháp luật
Những ai đã, đang và sẽ đứng trên
bục giảng đều xác định rất rõ tầm quan trọng của việc soạn giáo án trước khi
lên lớp. Có người cho rằng chất lượng giáo án quyết định tới 70% sự thành công
của bài học. Giáo án là kế hoạch, là dàn ý, là bản thiết kế của giảng viên
trong đó chứa đựng thời khoá biểu và bản đồ tư duy; xác định mục đích, yêu cầu,
phân chia thời gian và phương pháp mà người thầy sử dụng trong mỗi tiết học,
bài học sao cho phù hợp với từng nhóm đối tượng khác nhau.
Giáo án có vai trò đặc biệt quan
trọng giúp người thầy quản lý, chủ động về thời gian mỗi bài học, tiết học.
Giáo án cung cấp cho người thầy nguồn tham khảo, chỉ ra nội dung của bài học và
giúp đảm bảo trật tự khoa học của thông tin, sử dụng các phương pháp và các
phương tiện hỗ trợ cần thiết theo yêu cầu. Việc cung cấp thông tin trật tự,
khoa học sẽ giúp học viên hiểu và nhớ bài một cách khoa học.
Để có một giáo án chất lượng mỗi
người thầy phải chú ý đến nhiều vấn đề trong đó việc xác định trọng tâm của bài
là rất quan trọng. Nếu xác định đúng, bài giảng của giảng viên sẽ trở nên ngắn
gọn, súc tích và đạt được mục tiêu bài học. Xác định không đúng, bài giảng sẽ trở
nên ôm đồm, dàn trải, các kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi khắc hoạ không
rõ nét, phân bố thời gian không hợp lý, không hoàn thành được khối lượng kiến
thức, không đạt được mục tiêu bài học.
Để xác định đúng mục tiêu, kiến
thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi của bài, người thầy phải đọc kĩ nội dung giáo
trình và xác định vị trí của bài trong hệ thống kiến thức của chương trình,
giáo trình. Điều đặc biệt quan trọng là người thầy phải nắm chắc đối tượng
người nghe, mỗi đối tượng cần truyền đạt kiến thức khác nhau đòi hỏi người thầy
sẽ tiếp cận và tập trung vào những nội dung khác nhau để đảm bảo mục đích của
quá trình dạy học là “truyền đạt những gì người học cần chứ không phải nói
những gì mà người thầy có”. Thực tiễn cho thấy giáo án thực hiện thành công ở
lớp này không nhất định sẽ thành công ở lớp khác và với những đối tượng khác
nhau người thầy sẽ phải có những bản kế hoạch dạy học (giáo án) khác nhau.
Chương trình Trung cấp lý luận
chính trị - hành chính (chỉnh sửa, bổ sung) được ban hành kèm theo Quyết định
số 1479/QĐ-HVCTQG ngày 21/4/2014 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh về chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính đã
được triển khai từ ngày 01/8/2014. Đây là chương trình dành cho cán bộ lãnh
đạo, quản lý đương chức, dự nguồn của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân cấp cơ sở. Cán bộ đương chức, dự nguồn trưởng, phó phòng,
ban cấp huyện và tương đương. Trưởng, phó phòng thuộc sở, ban, ngành cấp tỉnh
và tương đương. Như vậy đối tượng nghiên cứu chương trình này rất đa dạng, là
những người có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, kiến thức thực tiễn
khá phong phú. Việc xác định đúng đối tượng học viên giúp cho giảng viên có
được bài giảng hiệu quả. Mặt khác, nội dung, kết
cấu của chương trình tương đối khoa học, gắn với thực tiễn, vừa tạo điều kiện
nhưng cũng vừa đòi hỏi giảng viên phải nắm bắt, đi sâu vào thực tế, thường
xuyên nâng cao trình độ để truyền giảng cho học viên. Chương trình được
rút gọn về thời gian so với trước, giảm thời gian lên lớp nhưng lại tăng thời
gian để học viên tự nghiên cứu, thảo luận.
Nhận thức rất rõ tầm quan trọng
của giáo án đối với chất lượng giảng dạy, đánh giá thực chất việc soạn giáo án
của nhà trường trong những năm qua, triển khai thực hiện Nghị Quyết số 06-NQ/ĐU
ngày 24/3/2016 của Đảng uỷ Trường Chính Trị Trường Chinh về việc tiếp tục nâng
cao chất lượng giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại Trường Chính
trị Trường Chinh, lãnh đạo nhà trường đã ban hành Hướng dẫn số 12/HD-TCTTC ngày
28/3/2016 về việc soạn giáo án bổ trợ, giáo án mẫu.
Việc ban hành hướng dẫn soạn giáo
án bổ trợ đã tạo ra sự thống nhất về mục đích, về quy trình và yêu cầu để các
khoa triển khai có hiệu quả việc soạn giáo án và nâng cao chất lượng bài giảng.
Trước đây lãnh đạo các khoa vẫn yêu cầu mỗi giảng viên phải tìm hiểu kỹ đối
tượng học viên, phải luôn cập nhật kiến thức, bổ sung vào bài những văn bản
pháp luật mới, những thông tin mang tính thời sự… Tuy nhiên, việc triển khai đó
chưa đồng bộ, thường mang tính tự phát và có sự khác nhau giữa các khoa. Từ khi
có định hướng của lãnh đạo nhà trường, các khoa đã thống nhất thông tin về đối
tượng học viên của từng lớp dựa trên báo cáo của phòng chức năng khi họp hội
đồng tuyển sinh, xác định trong lớp học đó đối tượng học viên nào chiếm đa số
để có định hướng chỉ đạo trong việc xác định thông tin cần cung cấp, xác định
phương pháp truyền đạt…Thống nhất nội dung trọng tâm, khối kiến thức cần truyền
đạt, nội dung thảo luận, hướng dẫn học viên tự học, tự nghiên cứu…
Trong hướng dẫn của nhà trường
xác định: Đối với đối tượng là các lớp đặt tại trung tâm bồi dưỡng chính trị
huyện, thành phố và những lớp có trên 50% học viên thuộc một ngành (giáo dục, y
tế, công an, thuế…) tham dự học chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành
chính thì giảng viên phải soạn giáo án bổ trợ. Nội dung giáo án bổ trợ thể
hiện: Kiến thức lý luận liên quan đến ngành bao gồm: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước có liên quan đến ngành; những nét đặc thù trong việc thực hiện nghiệp vụ
kỹ năng trong ngành; thực trạng hoạt động của địa phương, của ngành như đặc
điểm tình hình, lịch sử truyền thống, vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy cũng như những thuận lợi và khó khăn của địa phương, ngành; đánh
giá nguyên nhân của những thuận lợi và khó khăn đó (với thời gian từ 3-5 năm
gần nhất).
Xây dựng giáo án là công việc thường xuyên của mỗi
giảng viên trước khi lên lớp. Một khi giáo án được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu
thì sẽ giúp cho giảng viên có được sự tự tin, từ đó quyết định rất lớn đến sự
thành công của giờ giảng, bài học. Giáo án có chất lượng đòi hỏi mỗi giảng viên
phải xác định rõ đối tượng học, tạo ra sự thống nhất và chính xác trong nội
dung truyền đạt. Việc soạn giáo án bổ trợ đang hướng tới và dần đạt được mục
tiêu nâng cao chất lượng giảng dạy các chương tình đào tạo, bồi dưỡng của nhà
trường theo tinh thần Nghị quyết số 06-NQ/ĐU ngày 24/3/2016 của Ban Chấp hành
Đảng bộ nhà trường đã đề ra./.
PHÁT HUY VAI TRÒ LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN
TRONG TRIỂN KHAI HIỆU QUẢ DÂN CHỦ CẤP XÃ
ThS. TRẦN THỊ KIM THƯ
Giảng
viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Phát huy dân chủ cấp xã có ý nghĩa quan trọng đối với
xây dựng nền dân chủ ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều
đó xuất phát từ vai trò của cấp xã trong hệ thống chính trị bốn cấp. Nhận thức
được điều đó, Đảng và Nhà nước đã quan tâm tới việc thực hiện dân chủ cấp xã
với việc ban hành và thực hiện Quy chế và Pháp lệnh thực hành dân chủ ở xã, phường,
thị trấn. Thực tiễn triển khai gặp không ít khó khăn, hiệu quả thấp xuất phát
từ nhiều nguyên nhân, trong đó vai trò của nhân dân chưa được phát huy. Trong
bài viết nay, tác giả tập trung phân tích một số vấn đề sau: vai trò của nhân
dân trong thực hiện dân chủ cơ sở; những hạn chế của phát huy vai trò nhân dân
trong triển khai Quy chế và Pháp lệnh dân chủ ở cấp xã hiện nay; đề xuất một số
giải pháp phát huy vai trò của nhân dân
trong thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ và Pháp lệnh dân chủ ở cấp xã.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định sức mạnh của nhân dân là vô địch. Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Khi
đánh giá thành công cách mạng, Người khẳng định đó là do sức mạnh của nhân dân
“Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các
địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Minh để tranh lại quyền
độc lập cho Tổ quốc…Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai
chiến thắng được lực lượng đó” . Vận
dụng sáng tạo lý luận CN. Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách
mạng, Đảng ta luôn khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp cách
mạng, coi sự nghiệp của nhân dân và do chính nhân dân thực hiện, chứ không phải
của riêng ai. Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước là để tập hợp, giác
ngộ, tổ chức, bảo đảm điều kiện để nhân dân thực hiện các nhiệm vụ của cách
mạng.
Cấp xã ở nước ta là cấp cuối cùng trong hệ thống chính
quyền bốn cấp, nhưng lại có vị trí, vai trò quan trọng. Một đất nước nông
nghiệp như nước ta, cấp xã là địa bàn sinh sống của phần lớn nhân dân (trên
70%), quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân được thể hiện rõ nhất và trực
tiếp ở cấp xã. Chất lượng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta phụ
thuộc trước tiên và trực tiếp vào kết quả thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Do đó, triển khai dân chủ ở cấp xã là yêu cầu tất yếu
khách quan và có tính cấp thiết ở nước ta. Từ thực tiễn cho thấy, việc triển
khai các nội dung của quy chế và pháp lệnh dân chủ ở cấp xã không thể đạt được
hiệu quả nếu vai trò của nhân dân không được phát huy đầy đủ và thực chất. Bởi
lẽ, quần chúng nhân dân không chỉ là đối tượng thụ hưởng các giá trị mà phải là
chủ thể tích cực trong quá trình thực hiện các nội dung của Pháp lệnh dân chủ.
Một nhận thức sai lầm đã và đang tồn tại khá phổ biến trong nhân dân và cán bộ
cho rằng: chất lượng, hiệu quả thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở phụ thuộc vào
tính tích cực của hệ thống chính trị. Đây là nguyên nhân dẫn tới coi thường,
chưa quan tâm tuyên truyền, giáo dục nhân dân hiểu và chủ động tham gia triển
khai nội dung trong Pháp lệnh dân chủ ở địa phương. Kết quả cho thấy ở những
địa phương đó, thực hiện Quy chế và Pháp lệnh dân chủ còn nhiều bất cập và tồn
tại.
Thực tiễn triển khai thực hiện Quy chế và pháp lệnh
dân chủ ở xã, phường, thị trấn ở nước ta trong thời gia qua đã đạt được những
kết quả đáng kể góp phần quan trọng vào quá trình dân chủ hoá đời sống chính
trị - xã hội. Song phải thẳng thắn khẳng định: quá trình dân chủ hoá nói chung
và thực hiện Quy chế dân chủ và pháp lệnh dân chủ còn nhiều hạn tồn tại, hạn
chế. Hiệu quả thực hiện các nội dung “Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân giám sát,
kiểm tra” ở các địa phương còn thấp, tính hình thức còn khá phổ biến. Những tồn
tại có nhiều nguyên nhân, trong đó phải nói tới vai trò làm chủ của nhân dân
chưa được phát huy, chưa đáp ứng yêu cầu của người chủ và làm chủ.
Nhu cầu về dân chủ và năng lực thực hành dân chủ của
nhân dân còn thấp. Do đó, nhân dân chưa phát huy đầy đủ vai trò trong thực hiện
dân chủ ở cơ sở. Một bộ phận lớn nhân
dân, nhất là ở các địa phương, vùng kinh tế chậm phát triển, đời sống khó khăn,
nhân dân chưa thấy hết được những giá trị và ý nghĩa của thực hiện dân chủ,
cũng như nhận thức được vai trò trong quá trình thực hiện dân chủ. Từ đó, dẫn
tới tình trạng coi nhẹ, không quan tâm tới đời sống chính trị - xã hội, thờ ơ
với hoạt động của hệ thống chính trị, không chủ động tìm hiểu quyền làm chủ của
mình, chỉ chú trọng tới chăm lo phát triển kinh tế, tìm kiếm việc làm và làm ăn
kinh tế thuần túy trước mắt.
Thậm chí không ít người có tâm lý hoài nghi, không tin
tưởng vào những giá trị thực thi của Quy chế và Pháp lệnh dân chủ, coi đây hoạt
động mang tính hình thức, không thiết thực, dẫn tới thái độ tiêu cực từ nhận
thức đến thực hiện quy chế và pháp lệnh dân chủ.
Bên cạnh đó,
quan điểm cho rằng: thực hiện dân chủ là công việc của cấp ủy và chính quyền,
còn nhân dân chỉ là người được hưởng còn khá phổ biến trong nhân dân. Một bộ
phần nhân dân lại có nhận thức lệch lạc, thiếu khách quan và khoa học về dân
chủ, về thực hiện Quy chế và Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở. Dẫn tới tình trạng cố
tình hiểu sai, lợi dụng việc thực hiện dân chủ và hạn chế về trình độ nhận thức
của nhân dân để kích động, gây rối nhằm chuộc lợi cá nhân.
Nhân dân chưa chủ động sử dụng các hình thức dân chủ
trực tiếp để tham gia vào lãnh đạo, quản lý. đặc biệt là trong kiểm tra, giám
sát và xây dựng hệ thống chính trị địa phương. Hiện nay, tại chủ sở Đảng ủy xã, UBND, HĐNH thậm trí trung tâm văn
hóa và bưu điện xã cho tới nhà văn hóa thôn xóm đã tổ chức hòm thư góp ý, những
nhân dân không quan tâm tới hình thức dân chủ này. Tâm lý ngại đấu tranh, né
tránh, nể nang trong giám sát, khiếu nại, tố cáo vẫn phổ biến trong nhân dân ở
các vùng nông thôn, những nơi khó khăn về kinh tế. Ở nhiều địa phương, sai phạm
về quản lý đất đai, thực hiện chính sách xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng của cá
nhân, tổ chức kéo dài trong nhiều năm không được phản ánh, tố giác từ phía
người dân. Phần lớn những sai phạm được phát hiện đều do mâu thuẫn nội bộ hoặc
tính chất diễn ra nghiêm trọng tạo dư luận xã hội và bức xúc gay gắt.
Phát huy vai trò nhân dân ở cấp
xã trong phát huy dân chủ cơ sở có ý nghĩa quan trọng, mang tính quyết định đến
chất lượng quá trình dân chủ hóa ở nước ta. Phát huy vai trò làm chủ của nhân
dân, nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế và pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị
trấn cần tập trung vào:
Thứ nhất;
tập trung giải pháp phát triển kinh
tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho người nông dân. Phát triển kinh tế là điều kiện
cần thiết đối với phát huy dân chủ và năng lực làm chủ của nhân dân. Mỗi tỉnh
cần nghiên cứu và tiến hành tái cơ cấu lại nền sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở
tiền năng và lợi thế và nâng cao hiệu quả kinh tế. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu
quả của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục thực
hiện có hiệu quả công tác dồn điền, đổi thửa gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn
mới bảo đảm xát với thực tế, phù hợp với nhu cầu và năng lực của nhân dân, khắc
phục tình trạng thành tích, tạo điều kiện cần thiết cho đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Thứ hai; đổi mới công tác tuyền truyền, giáo dục pháp
luật, trong đó chú trọng đổi mới đa dạng các hình thức tuyên truyền nội dung
pháp lệnh dân chủ ở cấp xã. tăng cường
gắn kết việc thực hiện Quy chế, Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở với chương trình xây
dựng nông thôn mới.
Thứ ba; tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện Pháp lệnh
dân chủ ở cơ sở của Tỉnh đối với cấp xã. Đồng thời, phải chủ động xây dựng, ban
hành những văn bản hướng dẫn cụ thể việc thực hiện các hình thức mở rộng dân
chủ trực tiếp của nhân dân như; quy định cụ thể về trách nhiệm của cấp ủy,
chính quyền trong việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân và việc tiếp thu, sử
dụng các ý kiến đóng góp đối với quá trình lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là đối
với các quyết định lãnh đạo, quản lý. Quy định cụ thể về trách nhiệm, quy trình
thực hiện, cách thức sử lý và sử dụng kết quả lấy đánh giá, nhận xét của nhân
dân địa phương đối cán bộ, công chức cấp xã phục vụ công tác cán bộ, tạo niềm
tin của nhân dân đối hoạt động dân chủ hóa trong Đảng và hoạt động của chính
quyền, động viên nhân dân tham gia cáo trách nhiệm công việc xây dựng Đảng,
chính quyền địa phương./.
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG GIẢNG DẠY BÀI
“KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH NAM
ĐỊNH” THUỘC MÔN HỌC: TÌNH HÌNH, NHIỆM VỤ ĐỊA PHƯƠNG
ThS. TRẦN THỊ HUYỀN NGA
Giảng viên
khoa Xây dựng Đảng
Căn cứ vào Quyết định số 1479/QĐ-HVCTQG ngày 21/4/2014
của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về việc ban hành “Chương
trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính” (chỉnh sửa, bổ sung năm
2014), được sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Giám đốc Trường Chính trị Trường
Chinh, tập thể giảng viên nhà trường với tinh thần trách nhiệm, nghiêm túc, cẩn
trọng đã hoàn thành việc biên soạn bộ tài liệu phục vụ cho môn học Tình hình,
nhiệm vụ địa phương.
Sau một thời gian đưa vào giảng dạy, đến nay bộ tài
liệu đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi tích cực từ phía học viên. Trong đó,
phần lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam
Định có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu giảng dạy ở
Trường Chính trị Trường Chinh. Từ việc tìm hiểu hoạt động của Đảng bộ tỉnh nhà,
học viên thấy được mối quan hệ chặt chẽ của lịch sử Đảng bộ tỉnh với lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, thấy được nét độc đáo, đặc thù của lịch sử địa phương,
song vẫn tuân theo quy luật phát triển chung của lịch sử dân tộc và lịch sử
nhân loại. Thông qua đó, hoạt động của nhà trường có điều kiện gắn liền với xã
hội, lý luận đi đôi với thực hành, đồng thời cũng bồi dưỡng cho học viên những
kỹ năng cần thiết trong việc vận dụng tri thức lý thuyết vào việc giải quyết
những nhiệm vụ cụ thể mà thực tiễn đang đòi hỏi.
Được tham gia giảng dạy phần Khái quát lịch sử Đảng bộ
tỉnh Nam Định, đến nay, chúng tôi đã rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình
giảng dạy lịch sử Đảng bộ tỉnh như sau:
Giảng dạy phần lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định chính là việc cụ thể hóa một cách sinh
động, chi tiết những tri thức lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Những sự
kiện, hiện tượng lịch sử không thể tách rời vị trí không gian cụ thể, nhưng
những vị trí không gian đó nhiều khi có sự thay đổi theo cơ cấu, đơn vị hành
chính địa phương (chủ yếu do việc nhập, tách các huyện, xã…). Chính vì vậy khi
trình bày những sự kiện, hiện tượng lịch sử, cần chú ý xác định rõ không gian,
địa danh lịch sử ở thời điểm sự kiện xảy ra và ở vị trí không gian hiện tại để
học viên dễ theo dõi, hình dung, tái tạo lịch sử một cách chính xác. Như vậy sẽ
có những sự kiện, hiện tượng lịch sử gắn với các đơn vị hành chính, nhưng cũng
có sự kiện, hiện tượng lịch sử không hẳn như vậy. Do đó, trong quá trình giảng
dạy phần lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam
Định giảng viên cần thiết phải sử dụng các phương tiện hỗ trợ giảng dạy như:
máy chiếu, bản đồ, sơ đồ, tranh ảnh… minh họa.
Trong quá trình giảng dạy lịch sử
Đảng bộ tỉnh Nam Định cần phải xác định những sự kiện, hiện tượng lịch sử trước
hết mang tính địa phương, xảy ra ở vị trí, không gian của tỉnh Nam Định, song
mức độ ảnh hưởng của các sự kiện đó có thể rộng hẹp khác nhau. Chính vì vậy khi
giảng phần lịch sử Đảng bộ tỉnh cần phải thấy sự tác động qua lại, mức độ ảnh
hưởng của các sự kiện hiện tượng ở các Đảng bộ với nhau. Mặt khác, những hiện
tượng lịch sử diễn ra ở các Đảng bộ lại có những mối quan hệ nhất định với
nhau, được khái quát hóa để tạo thành một bộ phận của lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam
Định phải thể hiện được nét độc đáo của mình, song như vậy không có nghĩa là
tách rời, độc lập với lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lịch sử nói chung và lịch sử Đảng bộ tỉnh nói riêng là
những sự kiện đã đi qua nhưng không biến mất mà vẫn còn để lại dấu vết của nó
qua ký ức của nhân loại, của các nhân chứng lịch sử, qua những thành tựu văn
hóa vật chất, qua các hiện tượng lịch sử, qua hệ thống các văn kiện của Đảng…
chỉ có trên cơ sở những chứng cứ vật chất nói trên mới có sự nhận thức và trình
bày đúng đắn về lịch sử. Để thực hiện tốt yêu cầu trên và tổ chức dạy lịch sử
Đảng bộ tỉnh cho học viên một cách hiệu quả không có hình thức nào hữu hiệu
bằng việc chúng ta tổ chức cho: học viên tìm hiểu, thảo luận với các tư liệu
lịch sử Đảng bộ ở cơ sở. Từ đó giúp học viên độc lập suy nghĩ, trình bày ý kiến
riêng của mình, có thể học viên đánh giá, nêu ra nhiều ý kiến khác nhau xuất
phát từ sự hiểu biết những sự kiện đó ở các địa phương khác nhau trong tỉnh. Từ
đó, từng bước nâng cao hiệu quả giảng dạy bộ môn, thực hiện tốt việc đổi mới
phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực.
Bên cạnh đó, để phát huy
tối đa hiệu quả của bài giảng, người giảng viên
nên sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại như: vi tính, máy chiếu, phim tài
liệu có tính chất điển hình minh họa được cho bài giảng…Tuy nhiên, việc chọn
lọc, sử dụng hình ảnh để giới thiệu đến học viên yêu cầu người giảng viên phải
sử dụng tư liệu có căn cứ, chính xác, có độ tin cậy cao. Đây là một quá trình
lao động, khoa học, công phu, cẩn trọng đòi hỏi người giảng viên phải kiên trì,
nghiêm túc. Lịch sử là sự tổng hợp của vô số các sự kiện kế tiếp nhau và có
liên quan chặt chẽ theo những quy luật nhất định. Song việc giảng dạy, giới
thiệu các hình ảnh trực quan đến học viên lại phải biết chọn những sự kiện cần
thiết cho việc khôi phục, miêu tả và phân tích hiện thực lịch sử quá khứ. Điều
đó góp phần tạo sự hứng thú, kích thích tìm tòi, đi sâu nghiên cứu của học
viên, làm cho học viên phát huy được tính chủ động, sáng tạo.
Trường
Chính trị với nhiệm vụ: “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng,
chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và các đơn vị
tương đương) về lý luận chính trị, hành chính nhà nước và một số lĩnh vực khác.
Để thực hiện được sứ mệnh cao cả trên thì đội ngũ giảng dạy lý luận chính trị
nói chung giảng dạy phần “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định” nói riêng cần phải
phấn đấu hơn nữa nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo, đội ngũ
cán bộ đủ đức, đủ tài thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN./.
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN HỌC TRONG
CHƯƠNG TRÌNH TRUNG CẤP LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
CN. VŨ THỊ HỒNG NHUNG
Giảng viên khoa Nhà nước và
Pháp luật
Phương pháp là
cách thức để tiến hành công việc với kết quả tốt nhất. Nhà nghiên cứu văn hóa Bùi Kỷ từng nói: “Học không có phương
pháp thì dầu giùi mài hết năm, hết đời cũng chỉ mất công không”. Phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố quan trọng và
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. Phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giảng viên và người
học phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và
phát triển tư duy. Phương pháp giảng dạy không phù hợp sẽ khiến người học thụ
động, không hứng thú với việc học, dẫn đến hiệu quả học tập không cao.
Phương pháp
giảng dạy truyền thống là những cách thức dạy học quen thuộc được truyền từ lâu
đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Về cơ bản, phương pháp giảng dạy
này lấy hoạt động của người thầy là trung tâm. Thực hiện lối dạy này, giảng
viên là người thuyết trình, diễn giảng, là "kho tri thức" sống, học
viên là người nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo. Với phương pháp giảng dạy
truyền thống, giảng viên là chủ thể, là tâm điểm, học viên là khách thể, là quỹ
đạo. Do đặc điểm hàn lâm của kiến thức nên nội dung bài dạy theo phương pháp
truyền thống có tính hệ thống, tính lôgic cao. Song do quá đề cao người dạy nên
nhược điểm của phương pháp giảng dạy truyền thống là học viên thụ động tiếp thu
kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý
đến kỹ năng thực hành của người học; do đó việc vận dụng kiến thức vào đời sống
thực tế bị hạn chế.
Phương pháp
giảng dạy hiện đại là cách thức giảng theo lối phát huy tính tích cực, chủ động
của người học. Vì thế thường gọi phương pháp này là phương pháp giảng dạy tích
cực; ở đó, giảng viên là người giữ vài trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho
người học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận,
hội thảo theo nhóm. Người thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn điều khiển tiến
trình giờ dạy. Ưu điểm của phương pháp giảng dạy tích cực rất chú trọng kỹ năng
thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự
học. Đặc điểm của dạy học theo phương pháp này là giảm bớt thuyết trình, diễn
giải; tăng cường dẫn dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý tình huống song nếu không
tập trung cao, học viên sẽ không hệ thống và lôgic. Yêu cầu của phương pháp
giảng dạy tích cực cần có các phương tiện dạy học, học viên phải mạnh dạn, tự
tin bộc lộ ý kiến, quan điểm. Giảng viên phải chuẩn bị kỹ bài giảng, thiết kế
giờ dạy, lường trước các tình huống để chủ động tổ chức giờ dạy có sự phối hợp
nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và hoạt động của trò.
Đổi mới phương pháp giảng dạy không có nghĩa là phủ
nhận hoàn toàn cái cũ mà đổi mới là phải kế thừa và phát huy phương pháp truyền
thống là chủ yếu, đan xen với những phương pháp giảng dạy mới cho phù hợp với
nội dung từng bài học, phần học, giúp học viên chủ động thảo luận, trao đổi,
đóng góp ý kiến, tạo hứng thú cho học viên.
Trường Chính trị
các tỉnh nói chung, Trường Chính trị Trường Chinh nói riêng là đơn vị đào tạo,
bồi dưỡng đặc thù. Trước hết, bởi đối tượng người học là cán bộ, công chức,
viên chức đang công tác tại các ngành, lĩnh vực khác nhau trong toàn tỉnh; thứ
hai, sự khác biệt về độ tuổi, trình độ, nhận thức, kinh nghiệm của từng học
viên là những thách thức thức cho giảng viên trong quá trình truyền tải kiến
thức; thứ ba, hầu hết đội ngũ giảng viên trẻ của nhà trường kinh nghiệm công
tác chưa nhiều, kiến thức thực tế còn hạn chế, phần nào chưa đáp ứng được yêu
cầu của học viên. Do đó, việc đổi mới phương pháp giảng dạy là yêu cầu quan
trọng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, đáp ứng nhu cầu đào
tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Đổi mới phương
pháp giảng dạy làm cho các buổi học thêm phong phú, sinh động, việc tiếp thu
bài của học viên được dễ dàng hơn, qua các giờ cùng làm việc giữa các giảng
viên và học viên, tính tích cực tham gia học tập của học viên được phát huy,
các học viên nhiệt tình tham gia các phương pháp học tập tích cực do giảng viên
đề ra. Việc tham gia giải quyết các tình huống cụ thể sẽ làm cho học viên dễ
hiểu bài và có thể áp dụng vào các công việc cụ thể, nhớ bài lâu hơn so với
việc chỉ sử dụng duy nhất phương pháp thuyết trình. Qua quá trình tham gia học
tập, học viên cũng sẽ đóng góp nhiều ý kiến cho giảng viên để khắc phục
các nhược điểm trong giảng dạy làm cho chất lượng giảng dạy được nâng cao. Các
học viên ra trường sẽ vận dụng được những kiến thức tiếp thu được ở trường vào
công việc thực tế.
Đổi mới phương pháp giảng dạy là vấn đề không mới,
nhưng với chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính thì đây là vấn
đề mới, mang tính thời sự, đòi hỏi mỗi giảng viên phải trăn trở, nghiên cứu và
áp dụng hiệu quả trong quá trình giảng dạy.
Trước
hết, muốn đổi mới phương pháp giảng dạy, bản thân mỗi giảng viên phải vững
về chuyên môn, đồng thời phải có kiến thức liên ngành, đa ngành để vận dụng,
liên hệ vào bài giảng. Để làm được điều đó đòi hỏi các giảng viên mà đặc biệt
là giảng viên trẻ phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ, kỹ năng, nhận
thức cả về lý luận và thực tiễn; thực hiện nghiêm túc việc nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu thực tế. Giảng viên phải trau dồi về tri thức và có thời gian để thiết kế bài giảng
cho hợp lý với phương pháp dạy học tích cực. Kho
tàng kiến thức của giảng viên càng phong phú thì bài giảng càng hấp dẫn, khi sử
dụng các phương pháp cũng sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.
Thứ hai, để đổi mới
phương pháp giảng dạy hiệu quả đòi hỏi giảng viên phải hiểu và nắm chắc về
phương pháp. Giảng viên trẻ cần chủ động xây dựng kế hoạch bài giảng và tham dự
các lớp tập huấn, bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy hiện đại. Qua những lần
tham dự các lớp tập huấn và bồi dưỡng, giảng viên của Trường sẽ có được những
kiến thức cơ bản về phương pháp giảng dạy tích cực. Từ đó, mỗi giảng viên sẽ
nâng cao nhận thức về việc phải đổi mới phương pháp giảng dạy, kết hợp nhuần
nhuyễn giữa phương pháp truyền thống chủ yếu là thuyết trình với phương pháp hiện
đại tích cực như phương pháp làm việc theo
nhóm, đóng vai, tình huống, sàng lọc, lấy ý kiến ghi lên bảng… Kính mong
nhà trường tiếp tục tạo điều kiện cho giảng viên trẻ được tham dự các lớp tập
huấn về phương pháp giảng dạy hiện đại cũng như tạo điều kiện về cơ sở vật
chất, các trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy với các phương tiện hỗ trợ như
máy vi tính, đèn chiếu, bảng, giấy…Việc sớm hoàn thiện phòng phương pháp để đi
vào hoạt động cũng là yêu cầu quan trọng trong việc đổi mới phương pháp giảng
dạy tại Trường Chính trị Trường Chinh.
Thứ ba, giảng viên cần
có biện pháp cụ thể giúp học viên xác định rõ mục đích, ý nghĩa của việc học lý
luận chính trị, có ý thức và nghiêm túc trong quá trình học, phải xác định học
để biết, để làm cho đúng chứ không phải học để đối phó. Muốn thực hiện được
điều đó, giảng viên phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở học viên
chuẩn bị bài ở nhà, yêu cầu học viên làm bài kiểm tra điều kiện, bài thu hoạch
sau mỗi phần học. Giảng viên cần giúp học viên thay đổi tâm lý vốn quen với cách học
“đọc - chép” và phương pháp thuyết trình truyền thống, tiếp cận dần với phương
pháp giảng dạy hiện đại. Trong quá trình dạy và
học, giảng viên cần khuyến khích học viên hợp tác, trao đổi, hỗ trợ giảng viên
trong khi giảng dạy như tham gia nhiệt tình trong các tiết thảo luận, tích cực
phát biểu ý kiến để buổi học thêm sôi nổi, hấp dẫn và để thu hút tất cả những
học viên khác lắng nghe.
Đổi mới phương pháp giảng dạy đối với chương trình
Trung cấp lý luận chính trị - hành chính là quá trình lâu dài, cần sự nỗ lực
phấn đấu của cả giảng viên, học viên và sự hỗ trợ của nhà trường. Hy vọng rằng
trong tương lai không xa, tất cả giảng viên, học viên Trường Chính trị Trường
Chinh đều sẽ quen thuộc và áp dụng được các phương pháp dạy học mới. Có lẽ, khi
phương pháp dạy học tích cực được thực hiện hiệu quả thì lý luận chính trị sẽ
không còn là chương trình học khô khan, nặng về lý thuyết, khó hiểu nữa mà sẽ trở thành một môn học hấp dẫn, đem lại sự say
mê, hứng thú cho học viên, giúp học viên củng cố niềm tin vào lý tưởng cách
mạng của Đảng, góp phần tích cực vào quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước./.
.
MỘT SỐ TRAO ĐỔI VỀ VIỆC KẾT HỢP CÁC
PHƯƠNG PHÁP TRONG GIẢNG DẠY LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ
CN. LƯƠNG THỊ DINH
Giảng viên khoa Xây dựng Đảng
Trong hoạt động giảng dạy nói chung và giảng dạy lý
luận chính trị nói riêng, một trong những vấn đề rất quan trọng quyết định đến
chất lượng đào tạo - bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức đó là việc sử dụng có
hiệu quả các phương pháp giảng dạy.
Trước yêu cầu ngày càng cao của công tác đào tạo - bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, đổi mới phương pháp giảng dạy là cần thiết. Nhưng cần
nhận thức rằng đổi mới phương pháp dạy học hoàn toàn không có nghĩa là từ bỏ
các phương pháp truyền thống hay thay thế phương pháp truyền thống bằng các
phương pháp khác. Đổi mới, tức là: Làm phong phú đa dạng các hình thức, các
phương pháp nhằm mục đích đưa người học vào hoạt động học để chiếm lĩnh tri
thức, rèn luyện kỹ năng và hình thành thái độ.
Chúng ta có những phương pháp dạy học như: Nêu ý kiến
ghi lên bảng; sàng lọc, thuyết trình, làm việc nhóm, phỏng vấn nhanh, hỏi đáp,
trực quan, tình huống, hỏi ý kiến chuyên gia… Mỗi phương pháp có những giá
trị riêng, vấn đề quan trọng là người dạy phải biết lựa chọn phương pháp nào
phù hợp với nội dung và đối tượng học để phát huy hiệu quả bài giảng một cách
cao nhất.
Thực tế cho thấy, nếu như người giảng viên chỉ sử dụng
độc nhất một phương pháp hay một công cụ nào đó thì sẽ tạo ra sự ức chế, thụ
động cho người học, hiệu quả sẽ không cao. Chẳng hạn khi sử dụng máy chiếu,
giảng viên thường mắc các lỗi: trong một buổi học chiếu quá nhiều hình ảnh hay
trong mỗi slide viết quá nhiều chữ dẫn đến tình trạng học viên chưa kịp nhìn,
kịp ghi thì giảng viên lại chuyển sang một slide mới. Trong khi đó, nguyên tắc
vàng của việc áp dụng chương trình Powerpoint là không được viết câu quá dài và
quá nhiều chữ; khi trình diễn phải chèn cả sơ đồ, hình ảnh… Mặt khác, với đối
tượng người học là đội ngũ cán bộ có quá trình công tác nhất định, có kinh
nghiệm thực tiễn phong phú nên nếu giảng viên không sử dụng nhuần nhuyễn, linh
hoạt các phương pháp giảng dạy sẽ gây tâm lý nhàm chán cho học viên.
Bởi vậy, hiệu
quả dạy học đạt chất lượng cao khi người giảng viên biết sử dụng những phương
pháp phù hợp và biết kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp khác nhau. Kết hợp là
để phát huy và lấy ưu điểm của phương pháp này khắc phục, bù đắp cho những hạn
chế khiếm khuyết của phương pháp kia. Có như thế nội dung bài học mới được mổ
xẻ kỹ lưỡng, người học mới được thỏa mãn khả năng học, tiếp thu nội dung học
một cách đầy đủ và linh hoạt.
Người ta thống kê rằng: nếu chỉ có đọc thì người học
chỉ nhớ được 10%, chỉ có nghe thôi thì khả năng tiếp thu được 20%, cả nghe và
nhìn tiếp thu được 50%, nếu được trình bày thì khả năng nhớ có thể lên đến 70%.
Đặc biệt, nếu được kết hợp cả nghe, đọc, nghiên cứu, tự trình bày thì mức độ
nhớ lên đến 90%. Chỉ riêng điều đó thôi đã nói lên sự cần thiết phải áp dụng
các phương pháp khác nhau vào việc giảng dạy.
Rõ ràng, việc sử dụng và kết hợp các phương pháp giảng
dạy là cần thiết, nhưng sử dụng và kết hợp như thế nào để đạt hiệu quả lại phụ
thuộc vào người giảng viên. Người giảng viên phải biết kết nối các khả năng
giao tiếp về mặt nội dung và phương tiện để mang lại hiệu quả tối ưu nhất.
Thành công của buổi học suy cho cùng phụ thuộc vào người giảng viên, còn các
phương tiện luôn chỉ là một công cụ trợ giúp, chuyển tải các nội dung, tạo ra
sự chú ý, cải thiện khả năng nhớ, mức độ tiếp thu của người tham dự. Nó không
thể quyết định đến toàn bộ chất lượng giảng dạy và tự nó không phải là nội
dung. Do đó, tùy vào từng đối tượng học viên cũng như yêu cầu của bài giảng mà
giảng viên lựa chọn cho mình những phương pháp giảng dạy thích hợp, hiệu quả.
Thực tế thời gian qua, tập thể giảng viên trong nhà
trường đã mạnh dạn, từng bước thực hiện đổi mới phương pháp và sử dụng phương
tiện trong giảng dạy: kết hợp phương pháp thuyết trình với hỏi đáp; thuyết
trình với thảo luận tình huống; áp dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá; sử dụng
giấy, bảng để học viên nêu vấn đề và tổng kết; soạn giáo án điện tử, sử dụng
máy chiếu... Trong thao giảng, các giảng viên vừa sử dụng máy chiếu vừa kết hợp
với đặt câu hỏi để học viên trả lời, vừa cho học viên ghi ý kiến vào giấy có
tổng kết... Từ việc kết hợp, sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp và phương
tiện giảng dạy đó đã mang lại không khí học tập mới, tâm lý tự tin, tự chủ
trong học tập cho học viên, góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào tạo - bồi
dưỡng trong thời gian qua của nhà trường.
Như vậy, không
thể có phương pháp vạn năng cho tất cả các nội dung, nhưng một nội dung có thể
sử dụng nhiều phương pháp và phải biết kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp
nhằm đem lại hiệu quả giảng dạy cao nhất./.
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THẢO LUẬN
Ở CÁC LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -
HÀNH CHÍNH
ThS. CAO THỊ HÀ
Phó
Trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật
Để không ngừng nâng cao chất lượng, tạo chuyển biến
trong dạy và học lý luận, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
viên, thực hiện nội dung Chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị -
hành chính theo Quyết định số 1479/QĐ-HVCTQG ngày 21/4/2014 của Giám đốc Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các trường Chính trị cấp tỉnh, trong đó có
trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định đã xây dựng chủ trương và triển
khai nhiều giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy.
Nội dung của chương trình sửa đổi, bổ sung lần này rất
coi trọng việc tự học và thảo luận; trong tổng số 496 tiết lý thuyết lên lớp có
136 tiết thảo luận (cứ 4 tiết lý thuyết có hơn 1 tiết thảo luận); thảo luận nếu
được thực hiện tốt sẽ góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giảng dạy. Vậy
làm thế nào để thảo luận hiệu quả? Quá trình thảo luận giảng viên, học viên cần
làm gì và cần có những điều kiện gì để bảo đảm nâng cao hiệu quả thảo luận? Đó
là những câu hỏi cần có câu trả lời.
Thật vậy, tổ chức thảo luận hiệu quả là vô cùng cần
thiết. Thảo luận giúp tạo không khí học
tập sôi nổi, khắc phục tình trạng thuyết trình 1 chiều hay độc diễn của giảng
viên, làm sâu sắc nội dung bài giảng, góp phần đạt được mục tiêu của chương
trình đào tạo. Học lý luận nếu giảng viên chỉ thuyết trình sẽ khô khan, gò
bó, cứng nhắc, căng thẳng. Mục tiêu, yêu cầu giảng dạy lý luận hiện nay là tận
dụng và khai thác kiến thức thực tế từ học viên, bằng kỹ năng khơi gợi vấn đề,
giảng viên lôi cuốn học viên tham gia làm rõ cơ sở lý luận, chia sẻ những kỹ
năng, kinh nghiệm. Nội dung giảng dạy cần được khai thác dưới nhiều khía cạnh,
rõ ràng, dễ hiểu, dễ liên hệ vận dụng. Học viên khi mới đọc tài liệu ở nhà hoặc
khi tiếp nhận một vấn đề thực tế còn chưa hiểu rõ bản chất. Nhưng nếu được lý
giải trong giờ học đặc biệt được phân tích cụ thể trong giờ thảo luận tại lớp
sẽ giúp học viên hiểu rõ vấn đề hơn. Thảo luận, giúp học viên ý thức mình là
một phần quan trọng của quá trình học tập, xây dựng thái độ, động cơ học tập đúng đắn - học để
làm việc; thảo luận là trình bày ý kiến, thuyết phục người khác, là kỹ năng cần
thiết, sự rèn luyện để phục vụ công tác.
Thảo luận đạt
hiệu quả tăng cường sự hiểu biết giữa giảng viên và học viên. Với tư cách là trung tâm của quá trình đào tạo, học
viên không chỉ là đối tượng tiếp nhận tri thức thụ động mà còn tham gia tích
cực chủ động vào quá trình đào tạo và tự đào tạo. Thực tiễn, học viên học tập
chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính hiện nay trình độ chuyên
môn ngày càng cao, công tác đa dạng ở các ngành nghề trong khối cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và cả các đơn vị sự nghiệp.
Tiến hành thảo luận tốt, giảng viên sẽ
khai thác được nhiều thông tin từ thực tiễn và kinh nghiệm công tác của học
viên. Tham gia thảo luận, học viên được chia sẻ những khó khăn trong quản lý,
lý giải nhiều vấn đề từ lý luận, được định hướng thông tin, nhận thức rõ, đầy
đủ hơn bản chất của vấn đề được tìm hiểu. Quan trọng hơn, thảo luận tạo dựng
các mối quan hệ tích cực giữa các học viên thông qua những thông tin về đặc thù
công việc; thảo luận là cơ hội để giảng viên và các học viên hiểu nhau, tăng cường sự phối hợp kể cả sau
khi khóa học kết thúc.
Để thảo luận hiệu quả cần tiến hành nhiều biện pháp
liên quan đến các chủ thể tham gia vào quy trình đào tạo.
Trước hết, đối với giảng viên
Giảng viên
cần tìm hiểu đối tượng học viên, chuẩn bị giáo án với kế hoạch thảo luận cụ
thể. Do khối lượng kiến thức nhiều
nên khi thảo luận rất có thể sẽ không kịp tiến độ, bị sa lầy vào những câu hỏi
không tập trung chủ đề của học viên. Khắc phục tình trạng này, giảng viên phải
chuẩn bị tốt giáo án, phần nội dung xác định cần thảo luận phải lên kế hoạch
thể hiện trên khung bảng biểu. Trong đó làm rõ nội dung, mục tiêu, câu hỏi,
hình thức, phương pháp, thời gian thảo luận, phương tiện hỗ trợ. Cần xác định
mục tiêu giảng dạy theo hướng chuyển từ “dạy cái giảng viên có sang dạy cái học
viên cần”. Thông thường nên chọn
những vấn đề là trọng tâm của bài học, những vấn đề có nội dung gắn với đặc thù
đối tượng học viên, những vấn đề mang tính thời sự trong nước và đang diễn ra ở
từng địa phương và có thể chọn ngay vấn đề mà học viên đang khúc mắc. Thời gian
thảo luận cũng tính toán phù hợp với tiến độ bài giảng. Ngoài những giờ thảo
luận bắt buộc giữa môn hoặc kết thúc môn học, việc thảo luận được tổ chức vào
thời điểm nào của tiết giảng cần được tính toán cụ thể.
Giảng viên phải chủ động hoàn toàn về
nội dung bài giảng cũng như tất cả các kiến thức xoay quanh câu hỏi đưa ra thảo
luận. Mỗi giảng viên khi lên lớp phải
nắm chắc những kiến thức bài học, cố gắng hiểu được các kiến thức của cả môn
học, có được kiến thức liên môn thì càng tốt. Điều đó rất giúp ích cho việc
phân tích, lý giải các vấn đề thảo luận chắc chắn, dễ hiểu. Chủ động kiến thức
giúp giảng viên tự tin, xử lý các tình huống trên lớp, chủ động gợi mở vấn đề,
lôi cuốn tất cả các học viên cùng tham gia thảo luận. Kiến thức mà giảng viên
có chính là điểm thu hút, lôi cuốn, thuyết phục học viên trong mỗi bài giảng,
mỗi vấn đề đưa ra thảo luận.
Giảng viên
chọn phương pháp thảo luận phù hợp với nội dung thảo luận. Về phương pháp đưa vấn đề: Giảng viên đưa ra vấn đề
thông qua một câu hỏi có từ để hỏi, thông qua một câu nói, một việc làm, một
quyết định, một tình huống xảy ra ở địa phương, một vấn đề thời sự đang nổi cộm
được mô tả bằng lời văn, bằng hình ảnh hoặc qua video clips…Về phương pháp trả
lời: Giảng viên có thể sử dụng phương pháp hỏi chuyên gia. Tại lớp chọn một học
viên đóng vai là chuyên gia vì trực tiếp đang phụ trách mảng lĩnh vực liên quan
nội dung thảo luận. Có thể sử dụng phương pháp phát vấn trực tiếp học viên,
phương pháp làm việc nhóm, phương pháp ghi bảng, phương pháp sàng lọc…Tùy nội
dung và thời gian, giảng viên sẽ lựa chọn một phương pháp. Để tránh nhàm chán,
trong các buổi thảo luận có nhiều nội dung thảo luận thì phương pháp đưa ra cần
khác nhau.
Giảng viên
cần thường xuyên rèn luyện một số kỹ năng cơ bản. Đó là phải biết
lắng nghe. Kỹ năng này biểu
hiện qua cử chỉ, ánh mắt và tư thế. Tuyệt đối không được ngắt lời học viên. Hãy
lắng nghe và cố hiểu, chưa rõ, hãy hỏi lại khi họ đã trình bày xong. Không chỉ
trích, không phản đối ngay ý kiến của học viên kể cả khi đó là những ý kiến
trái chiều, sai lệch, thậm chí ngô nghê. Đó chính là cách thể hiện sự tôn trọng
của giảng viên, là cách để khích lệ tinh thần học viên cả lớp cùng tham gia
thảo luận. Giảng viên cần làm cho học viên vượt qua sự sợ hãi của bản thân,
vượt qua nỗi sợ bị chỉ trích. Đừng để học viên nghĩ rằng cách tốt nhất để tránh
những sai lầm, đó là không nói gì cả. Bên cạnh, giảng viên cần biết thuyết phục. Thuyết phục để học viên
thấy rằng tự tin nói ra suy nghĩ của mình là điều còn quý hơn nhiều việc chờ
đợi cho đến khi nghĩ ra câu trả lời tốt nhất. Thuyết phục để tất cả học viên
nhận thức đúng vấn đề đưa ra thảo luận, nhất là khi có những ý kiến khác nhau
về nội dung thảo luận. Thuyết phục bằng ngôn ngữ, cử chỉ, bằng sự chân thành,
thân thiện. Thuyết phục bằng lập luận có căn cứ, có cơ sở pháp lý, qua những
dẫn chứng cụ thể.
Trong thảo luận còn cần kỹ
năng đặt câu hỏi. Giảng viên đưa ra
vấn đề bằng các câu hỏi. Giảng viên tiếp tục đặt các câu hỏi liên quan để gợi
mở vấn đề hoặc làm rõ, làm sâu sắc vấn đề. Nên đặt các câu hỏi dạng nghi vấn.
Các câu hỏi đặt ra ngắn gọn, theo trình tự lôgic. Căn cứ vào mức độ nhận thức
của học viên để đưa ra câu hỏi vừa đủ để làm rõ vấn đề.
Hai là đối
với học viên
Học viên là chủ thể quan trọng quyết định nhiều đến
hiệu quả giờ thảo luận. Mọi sự nỗ lực
cố gắng của giảng viên luôn cần có sự hưởng ứng của tất cả học viên. Việc tự
nhận thức về ý nghĩa của các giờ thảo luận, học viên cần bố trí thời gian, sử
dụng tối đa giờ tự học. Để có được sự tự giác đó cần sự cảm hóa từ tâm huyết
trong giảng dạy, từ kiến thức sâu rộng, chắc chắn của giảng viên; cần sự kiểm
tra, đôn đốc, giao việc cụ thể của các khoa chuyên môn; và đặc biệt cần cơ chế
phối hợp quản sinh chặt chẽ, cần một cơ chế khen thưởng rõ ràng.
Do đặc thù chuyên môn, mỗi khoa sẽ cùng trao đổi, bàn
bạc thống nhất nội dung và phương pháp thảo luận ở mỗi bài giảng được phân
công. Mỗi khoa thống nhất việc yêu cầu giao nhiệm vụ nghiên cứu theo từng
chuyên đề cho học viên, có bài kiểm tra đánh giá sau mỗi giờ thảo luận. Trong
khi chưa có những hướng dẫn cụ thể về cách tính điểm quá trình, các khoa cần
thống nhất cơ chế khuyến khích thưởng điểm cho những học viên tích cực nghiêm
túc tham gia các giờ thảo luận, các ý kiến có chất lượng, mang tính xây dựng
cao. Danh sách này được tổng hợp chuyển về phòng Đào tạo và giáo viên chủ nhiệm
để có cơ sở thưởng điểm hoặc đề nghị tuyên dương, khen thưởng khi hết khóa học.
Ba là, đối
với nhà trường
Để giảng viên và học viên thực hiện tốt các phần giải
pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy nói chung, đặc biệt là nâng cao hiệu quả
các giờ thảo luận rất cần sự hỗ trợ, tạo điều kiện của nhà trường. Nhà trường
tiếp tục cho các giảng viên tham dự khóa bồi dưỡng, bồi dưỡng nâng cao về
phương pháp giảng dạy tích cực. Nhà trường cần tăng cường dự giảng, tổng kết và
nhân rộng điển hình những giảng viên có phương pháp và tổ chức các buổi thảo
luận hiệu quả. Nhà trường cần bố trí số lượng học viên vừa đủ để giảng viên có
thể triển khai các phương pháp tích cực trong giờ thảo luận, đồng thời tiếp tục
trang bị phương tiện hỗ trợ như máy chiếu, bảng lật, bảng ghim…ở tất cả các lớp
học. Đồng thời, nhà trường cần sớm xây dựng và triển khai quy trình đánh giá
kết quả học tập dựa trên thang điểm các bài kiểm tra và bài thi hết môn.
Có nhà giáo đã nói: Người học không phải là một chiếc
bình cần đổ đầy kiến thức, mà bản thân họ là những ngọn đuốc cần được thắp lên.
Khơi dậy hiệu quả tư duy, nhận thức của học viên, cùng họ nghiên cứu lý luận,
vận dụng để giải quyết các tình huống đặt ra trong thực tế là mục tiêu quan
trọng của chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính mà
những người làm công tác giảng dạy tại trường chính trị phải thực hiện. Mục
tiêu đó sẽ chỉ đạt được khi giảng lý thuyết và thảo luận hiệu quả./.
CỤ THỂ HÓA QUY TRÌNH HƯỚNG DẪN VIẾT TIỂU
LUẬN CUỐI KHÓA
TRONG CHƯƠNG TRÌNH TRUNG CẤP LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
ThS. VŨ NGỌC HOÀNG
Trưởng
khoa lý luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo Quy chế số 10/QC-HVCTQG ban hành kèm theo Quyết
định số 22/HVCTQG ngày 03 tháng 11 năm 2008 viết tiểu luận tốt nghiệp cuối khóa
chương trình Trung cấp lý luận chính trị được hiểu là một bài viết ngắn gọn
nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể của học viên, đơn vị công tác và giúp cho học
viên vận dụng những kiến thức lý luận đã được học vào thực tiễn qua đó giảng
viên, nhà trường đánh giá được chất lượng giảng dạy, học tập của học viên.
Như vậy viết tiểu luận có giá trị rất lớn giúp người
viết tập hợp được từng khối kiến thức lý luận kết hợp với thực tiễn để xử lý
những công việc cụ thể, do đó trong những năm vừa qua, Trường Chính trị Trường
Chinh tỉnh Nam Định luôn định hướng cho giảng viên hướng dẫn học viên lựa chọn
đề tài gắn với thực tiễn công việc của mình. Tuy vậy, thực trạng giảng viên
hướng dẫn và học viên viết tiểu luận cũng đã xuất hiện một số hạn chế: Các
khoa, giảng viên hướng dẫn không thống nhất, học viên viết liểu luận mang tính
dập khuôn, tính lý luận nhiều hơn và thường kế thừa những tiểu luận có trước.
Do đó, cụ thể hóa quy trình hướng dẫn viết tiểu luận trong chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính là vấn đề cần thiết, cấp
bách trong giai đoạn hiện nay nhằm nâng cao chất lượng, hiệu của trong viết
tiểu luận cuối khóa.
Một số quy trình cần phải làm để nâng cao chất lượng
viết tiểu luận cho học viên như sau:
1. Giảng viên định hướng chọn đề tài và hướng dẫn
Tùy theo từng bộ môn, từng mảng của môn học do mình
đảm nhận mà giảng viên có ý định chọn cho mình các đề tài hoặc cụm đề tài với
tiêu chí quan trọng là phải đảm bảo gắn liền giữa lý luận và thực tế.
Lý luận tức là lý thuyết cơ sở của đề tài, là luận cứ
quan trọng để triển khai đề tài, đồng thời cũng là mục đích chứng minh kiểm
nghiệm bằng thực tiễn đúng đắn của lý luận, vì nếu không có lý luận thì không
thể mở đường cho việc nghiên cứu, triển khai một đề tài, không có lý luận thì
đề tài không có tính định hướng như vậy đề tài sẽ giảm tính thuyết phục.
Mặt khác, tính thực tế của đề tài đảm bảo vấn đề
nghiên cứu gắn liền với thực tiễn sinh động đã, đang và sẽ diễn ra trong quá
khứ, hiện tại và tương lai. Thực tiễn là điều kiện quan trọng để minh họa vấn
đề đặt ra trong đề tài. Đó là một chuỗi số liệu, dữ liệu thực tế ở nhiều thời
điểm phục vụ cho phân tích sự việc, những vấn đề sai hay đúng, được hay mất, có
hay không, hợp lý hay không hợp lý, thể hiện được hay chưa giữa lý luận và thực
tiễn của cuộc sống.
Việc chọn đề tài, cụm đề tài hướng dẫn giúp cho giảng
viên có điều kiện vạch ra cho mình nhiều hướng nghiên cứu về môn học do mình
đảm nhận dưới nhiều góc độ cả về lý luận và thực tiễn.
2. Về việc phân đề tài cho học viên
Đứng trên nguyên tắc thì học viên không có quyền chọn
đề tài, bởi vì tất cả các đề tài đưa ra đều nằm trong chương trình mà học viên
đã được học. Nhưng thực tế việc phân đề tài cho học viên nếu nội dung phù hợp
với điều kiện công tác chuyên môn của học viên thì họ sẽ dễ dàng nghiên cứu và
đưa ra những lý luận sắc bén, những thực tế sinh động từ đó đưa ra những kiến
nghị thực tế và nhiều biện pháp khả thi.
Theo tôi, có thể thực hiện cách phân đề tài như sau:
Các học viên được phân đều về các bộ môn hay từng mảng
của bộ môn, mỗi bộ môn hay mảng bộ môn đó đã có giảng viên phụ trách hướng dẫn.
Việc phân bổ đều học viên cho các bộ môn đó là việc phân bổ kiểu ngẫu nhiên
theo từng tổ, nhóm song vẫn có thể căn cứ vào chuyên môn công tác của học viên.
- Đối với học viên có học lực đạt giỏi nên phân bổ
ngẫu nhiên không căn cứ vào chuyên môn, nghề nghiệp.
- Đối với học viên có học lực khá nên căn cứ vào
chuyên môn công tác của họ để phân bổ đề tài tạo điều kiện cho họ dễ dàng thực
hiện đề tài.
=> Đây là sự kết hợp giữa phân bổ ngẫu nhiên và
phân bổ có lựa chọn, trong đó phân bổ ngẫu nhiên là chủ yếu.
Chú ý:
Việc phân bổ đề tài cho các giảng viên trong khoa phải trên cơ sở chuyên môn và
đồng đều có đề tài hướng dẫn. Đó là điều kiện cho giảng viên nghiên cứu khoa
học, rèn luyện nâng cao trình độ, nhất là rút ra được những kinh nghiệm thực
tiễn để bổ sung cho bài giảng và hướng dẫn kế tiếp tốt hơn.
3. Các bước giảng viên cần làm khi hướng dẫn đề tài
Khi giảng viên được phân công hướng dẫn những học viên
phù hợp với khả năng và chuyên môn của mình thì sẽ tiếp tục triển khai việc
hướng dẫn theo các bước sau:
Bước 1: Khi
học viên nhận được đề tài thì học viên tự xây dựng tên đề tài sau đó viết đề
cương chi tiết cho đề tài mình nghiên cứu.
Giảng viên có trách nhiệm xem xét tên đề tài, đề cương
có hợp lý hay không cả về lý luận và thực tiễn cần sửa đổi bổ sung sao cho hợp
lý và khoa học.
Cách làm này có những tác dụng tích cực sau:
- Học viên phải nghiên cứu để đưa ra vấn đề mà mình
nghiên cứu, xây dựng một đề cương phù hợp, không sao chép, không phụ thuộc vào
giảng viên đã vạch sẵn;
- Giảng viên: phải năng động suy nghĩ với những đề tài
mà học viên đã chọn, buộc họ phải làm việc tích cực thì mới hướng dẫn được và
không thấy đơn điệu với các đề tài lặp đi, lặp lại của mình.
Bước 2:
Hướng dẫn học viên đi nghiên cứu thực tế để viết đề tài.
Khi giảng viên và học viên thông qua và thống nhất đề
cương chi tiết thì học viên phải dành thời gian đi nghiên cứu thực tế để hoàn
thành tiểu luận của mình sao cho lý luận và thực tế phải bám sát nhau không đề
cao lý luận bỏ sót thực tiễn và ngược lại dùng thực tiễn để chứng minh cho lý
luận. Phần này đòi hỏi học viên phải làm việc tích cực mới có hiệu quả cao.
Bước 3: Khi
viết xong sơ bộ đề tài học viên phải gửi cho giảng viên bản thảo tiểu luận,
giảng viên có nghĩa vụ phải đọc để nắm được bài viết của học viên trên các mặt
sau: Bố cục đề tài, cách hành văn, cách phân tích giải quyết các vấn đề và cuối
cùng là các giải pháp kiến nghị
Tóm lại: Đề tài phải đảm bảo tương xứng giữa 3 phần:
lý luận chung, thực tiễn và giải pháp, kiến nghị
Bước 4: Khi
giảng viên thông qua tiểu luận cho học viên cần nhận xét về tất cả mọi mặt đã
đưa ra ở trên và giúp học viên chỉnh sửa những vấn đề cần thiết để tiểu luận có
chất lượng cả về lý luận và thực tiễn sau đó trả cho học viên hoàn chỉnh lại.
Bước 5: Học
viên nộp tiểu luận chính thức cho giảng viên.
Bước này chia làm 2 phần
- Giảng viên trực tiếp hướng dẫn là người chấm thứ
nhất
- Và một giảng viên có chuyên môn là người chấm thứ
hai. Nếu không thống nhất phải đưa ra Hội đồng khoa học của nhà trường cùng
nghiên cứu, thống nhất và cuối cùng nộp điểm cho phòng Đào tạo tổng kết.
Tóm lại:
Để nâng cao chất lượng học tập Trung cấp lý luận chính trị - hành chính. Trong đó có việc nâng cao chất lượng viết tiểu luận
cuối khóa thì phụ thuộc vào nhiều khâu: từ khâu giảng viên định hướng, chọn đề
tài, phân bổ đề tài, hướng dẫn đề tài, quá trình thực hiện đề tài đều phải làm
có tính khoa học và trách nhiệm thì chất lượng tiểu luận mới tốt./.
Về sự kiện này, Đại Việt sử ký toàn thư chép: Yên Sinh
Vương Trần Liễu là cha của Trần Quốc Tuấn, trước đây vốn có hiềm khích với
Chiêu Lăng (vua Trần Nhân Tông) mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài
nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, Yên Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng
rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng
không nhắm mắt được. Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng nhưng không cho là phải”.
|