STT
|
Bài viết
|
Tác giả
|
1
|
Phát huy truyền thống, tiếp tục đoàn kết, đổi mới, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh
|
Đồng chí Trần Văn Chung, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ, Chủ
tịch HĐND tỉnh Nam Định
|
2
|
Trường Chính trị Trường Chinh 59 năm - Một chặng
đường
|
ThS. Phạm Thị Thanh Thủy, TUV, Giám đốc Trường Chính trị Trường
Chinh
|
3
|
Một số kinh nghiệm trong triển khai soạn giảng
các bài “Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”
trong chương trình Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính chỉnh sửa, bổ sung
|
ThS. Hoàng Đình Trung, Phó Giám đốc
|
4
|
Tìm hiểu một số điểm mới của Nghị định số
04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và đơn
vị sự nghiệp công lập
|
CN. Lê Thị Thu Phượng, Giảng viên khoa Dân vận
|
5
|
Vận dụng nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy học phần Triết học Mác- Lênin
chương trình Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính
|
CN. Nguyễn
Thị Hiệp, Giảng viên khoa Lý luận
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
|
6
|
Nâng cao tính thực tiễn trong
các bài giảng của giảng viên trẻ
|
CN. Trần Thùy Dương, Giảng viên khoa Lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh
|
7
|
Một số kinh nghiệm giảng dạy
môn “Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”
|
ThS. Trần Thị Huyền Nga, Giảng viên
khoa Xây dựng Đảng
|
8
|
Giải pháp nâng cao chất lượng
nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Chính trị Trường Chinh
|
CN. Lê Tiến Dũng, Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu
|
9
|
Hội thảo khoa học - Một hoạt động nghiên cứu khoa
học cần thiết ở trường Chính trị Trường Chinh
|
ThS. Cao Thị Thu Hiền, Phó Trưởng phòng Nghiên cứu KH - TT - TL
|
10
|
Nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Chính
trị Trường Chinh - Một số kinh nghiệm
|
ThS. Cao Thị Hà, Phó Trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật
|
11
|
Một số suy nghĩ về việc tổ chức nghiên cứu thực
tế và các hoạt động ngoại khóa trong chương trình đào tạo Trung cấp Lý luận
Chính trị - Hành chính
|
Vũ Mạnh Hưng, Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính K117
|
12
|
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công
tác lưu trữ hồ sơ học viên ở Trường Chính trị Trường Chinh
|
CN. Vũ Đức Thắng, Phó
Trưởng phòng Đào tạo
|
13
|
Thực trạng công tác phối hợp
tuyển sinh ở trường Chính trị Trường Chinh
|
ThS. Trần Thùy Dương, Phó Trưởng
phòng Đào tạo
|
14
|
Nâng cao năng lực và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay
|
ThS. Hoàng Thị Châu Yên, Trưởng phòng Tổ chức - Hành chính - Quản
trị
|
15
|
Nâng cao vai trò của đoàn viên thanh niên trong
thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường
|
CN. Nguyễn
Thị Thu Lan, Bí thư Đoàn trường
|
16
|
Nâng cao vai trò lãnh đạo của
Chi bộ khoa lý luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công tác chuyên
môn
|
ThS. Hoàng Đức Hợp, Phó Trưởng khoa Lý luận Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh
|
17
|
Yếu tố quyết định hiệu quả công việc của khoa Nhà
nước và Pháp luật
|
ThS. Nguyễn Thị Thu Hường, Trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật
|
18
|
Cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị
nhằm đáp ứng yêu cầu dạy và học trong giai đoạn hiện nay
|
CN. Phan Mạnh Thành, Phó Trưởng phòng Tổ chức - Hành chính -
Quản trị
|
19
|
Phát huy vai trò của nữ viên chức trường Chính
trị Trường Chinh trong giai đoạn hiện nay
|
CN. Mai Thị Thanh Hương, Giảng viên khoa Dân vận
|
20
|
Tâm sự của người giảng viên về nghề giáo
|
ThS. Hồ Thị Lý, Giảng viên khoa Nhà nước và Pháp luật
|
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG, TIẾP TỤC
ĐOÀN KẾT, ĐỔI MỚI, PHẤN ĐẤU HOÀN THÀNH XUẤT SẮC NHIỆM VỤ ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ CHO TỈNH
Đồng chí Trần Văn Chung
Phó Bí thư
Thường trực Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Nam Định
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán
bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Người rất coi trọng và quan tâm đến công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Người xác định: “Huấn
luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Với ý nghĩa đó, trong mọi giai đoạn
cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác đào tạo cán bộ và xác định đây là
công việc thường xuyên liên tục, lâu dài của Đảng, là yêu cầu khách quan trong
xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức, xây dựng cho Đảng đội ngũ cán bộ có số lượng hợp lý, cơ
cấu đồng bộ, chất lượng cao.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, Nghị quyết 08 - NQ/ TU ngày 06/8/2007 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
khóa XVII “Về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ 2007 - 2015 và những năm
tiếp theo” và Nghị quyết 05-NQ/TU ngày 25/7/2011 về “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn từ 2011 - 2015
và những năm tiếp theo”. Những năm qua, trường Chính trị Trường Chinh tỉnh
Nam Định đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh.
Trường đã chủ động phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học
viện Chính trị khu vực I, Học viện Hành
chính quốc gia và Học viện Báo chí và Tuyên truyền mở nhiều lớp đào tạo, bồi
dưỡng cho đội ngũ cán bộ các cấp của tỉnh đạt trình độ đại học chuyên môn, cao
cấp lý luận chính trị. Từ 2010 đến 11/2015, nhà trường đã tổ chức liên kết đào
tạo đại học và cao cấp chính trị, chính trị - hành chính: 09 lớp với 932 học
viên. Ngoài ra, nhà trường đã trực tiếp giảng dạy 06 loại hình đào tạo, bồi
dưỡng với 197 lớp với 18.904 học viên. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của
trường từng bước được nâng cao. Cùng với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
nhà trường còn thường xuyên coi trọng công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết
thực tiễn với phương châm “Lý luận liên hệ với thực tiễn, nhà trường gắn liền
với xã hội”. Trường đã tổ chức nghiên cứu và nghiệm thu nhiều đề tài khoa học.
Nhà trường đã từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, giảng dạy
có trình độ ngày càng cao, phẩm chất đạo đức tốt, có lập trường quan điểm chính
trị vững vàng, có năng lực chuyên môn đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhiệm vụ
chính trị được Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh giao. Đây chính là nguồn lực quan
trọng nhất quyết định chất lượng đào tạo cán bộ và uy tín của nhà trường. Mỗi
bước trưởng thành của trường đều gắn liền với sự phát triển chung của tỉnh.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nói
chung, Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh nói riêng đang nỗ lực phấn đấu vượt qua
khó khăn thách thức, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế,
phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đề ra, lập thành tích hướng tới Đại hội lần
thứ XII của Đảng. Trong thời gian tới, Nhà trường cần tập trung triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm
sau:
Thứ nhất, cần quán triệt và nghiêm túc thực hiện các quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội
đại biểu tỉnh Đảng bộ lần XIX tới cán bộ, giảng viên, nhân viên và học viên.
Thứ hai, chú trọng nghiên
cứu triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Nhà trường, đặc
biệt là chương trình Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính. Trong
những năm tới, nhà trường cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới phương
pháp giảng dạy; giảng dạy phải gắn lý luận với thực tiễn xã hội, gắn với từng
ngành, từng địa phương trong tỉnh. Cần coi trọng việc trang bị cho người học
khả năng tư duy sáng tạo hướng vào các vấn đề cuộc sống đặt ra. Đồng thời, cần
tăng cường hơn nữa việc đào tạo, giáo dục, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của sự nghiệp đổi mới, thực hiện các mục tiêu của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Mặt khác nhà trường cần làm tốt công tác
quản lý học viên, động viên học viên tranh thủ tối đa thời gian để học tập trên
lớp và tự nghiên cứu; chuyển quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo; chú
trọng rèn luyện mọi mặt để sau khi hoàn thành khoá học cán bộ đạt chất lượng
toàn diện cả về nhận thức lý luận và thực tiễn; thực sự là những cán bộ lãnh
đạo, quản lý có kiến thức, có phương pháp tư duy khoa học, đủ khả năng hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác nghiên
cứu khoa học và tổng kết thực tiễn. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng
góp phần vào nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Nhà trường
cần phối hợp, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các ngành, địa phương trong
tỉnh, chủ động xây dựng chương trình, đề án đổi mới hoạt động nghiên cứu thực
tế đối với giảng viên và học viên. Đội ngũ cán bộ, giảng viên của Nhà trường
phải tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng;
chủ động phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch
ngay trong từng bài giảng, môn học, phần học.
Thứ tư, chú
trọng hơn nữa việc xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức nhà trường, nhất là đội
ngũ giảng viên. Hiện nay, trường có gần 40% cán bộ, giảng viên có trình độ thạc
sỹ và 03 giảng viên đang học và chuẩn bị hoàn thành chương trình nghiên cứu
sinh, phần lớn đội ngũ giảng viên được trưởng thành từ thực tiễn giảng dạy,
nghiên cứu lý luận. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của
Tỉnh trong những năm tới, Đảng ủy, Ban Giám đốc cần chủ động xây dựng kế hoạch
tuyển dụng, đào tạo để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên, phấn đấu
từ nay đến 2020 phải có trên 50% tổng số giảng viên có trình độ thạc sỹ và có
3-5 tiến sỹ chuyên ngành. Bên cạnh đó, nhà trường cần chú trọng việc rèn luyện
nâng cao bản lĩnh và phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ,
phối hợp cùng Ban Tổ chức Tỉnh ủy, tham mưu cho Tỉnh uỷ về việc thực hiện luân
chuyển cán bộ, lựa chọn những cán bộ lãnh đạo, quản lý đã qua cơ sở có năng lực
chuyên môn và kỹ năng sư phạm bổ sung vào đội ngũ của trường. Như vậy, nhất
định chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên sẽ từng bước được nâng cao, đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ chính trị của nhà trường.
Thứ năm, tranh thủ sự quan tâm và tạo điều kiện của Tỉnh uỷ,
Uỷ ban nhân dân tỉnh tiếp tục đầu tư, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật phục
vụ công tác giảng dạy, có kế hoạch khai thác và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật
chất của nhà trường.
Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh và nhân dân toàn tỉnh ghi
nhận, đánh giá cao thành tích và những đóng góp to lớn của trường Chính trị
Trường Chinh cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của Tỉnh. Phát huy truyền thống 59 năm xây dựng
và trưởng thành, nhất định trong thời gian tới, Đảng ủy, Ban Giám đốc và tập
thể cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà trường sẽ không ngừng nỗ lực phấn đấu
hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh, góp phần thực
hiện tốt các mục tiêu mà Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XIX
(nhiệm kỳ 2015 - 2020) đề ra./.
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH
59 NĂM MỘT CHẶNG ĐƯỜNG
ThS. Phạm Thị Thanh Thủy
TUV,
Giám đốc Trường Chính trị Trường Chinh
Thực hiện Chỉ thị số 08/CT-TW ngày 08/3/1956 của Ban Bí thư Trung ương về
việc mở Trường Đảng ở các cấp để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng, ngay từ
tháng 4 năm 1956, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nam Định đã chuẩn bị phương án thành
lập trường Đảng tỉnh. Tại Hội nghị, ngày 09/6/1956, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
Nam Định đã ban hành Nghị quyết số 19/NQ-TU về việc thành lập trường Đảng tỉnh.
Nghị quyết đã chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ của trường là: Huấn luyện cho cán bộ
cơ sở, chủ yếu là Chi ủy ở xã về: Đường lối cách mạng Việt Nam, các chính sách
của Đảng và Nhà nước, những kiến thức về lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, những
hiểu biết về Đảng và công tác xây dựng Chi bộ. Ngày 09/6/1956, đã là dấu mốc
quan trọng, đánh dấu sự ra đời của Trường Đảng tỉnh Nam Định - nay là trường
Chính trị Trường Chinh.
59 năm qua, trường Chính trị Trường Chinh đã mang những tên gọi khác nhau:
Trường Đảng tỉnh và trường Hành chính tỉnh (1956-1964); trường Đảng tỉnh Nam Hà
(1965-1975); trường Đảng tỉnh Hà Nam Ninh (1976-1992); trường Đào tạo cán bộ
tỉnh Nam Hà (1993-1995); trường Chính trị tỉnh Nam Hà (1995-1997); trường Chính
trị tỉnh Nam Định (1997-1998); trường Chính trị Trường Chinh (1999 đến nay) nhưng
dù dưới tên gọi nào, trường vẫn luôn là địa chỉ tin cậy trong công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cho tỉnh nhà, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ
chính trị đặt ra trong mỗi thời kỳ cách mạng. 59 năm xây dựng và trưởng thành,
nhà trường ngày càng khang trang, bề thế, vững mạnh toàn diện cả về tổ chức bộ
máy, nguồn nhân lực, quy mô và phương thức đào tạo. Các thế hệ cán bộ, giảng
viên, nhân viên không ngừng cố gắng chung sức viết thêm bề dày thành tích của nhà
trường.
Từ khi thành lập đến nay, hoạt động dạy và học cũng như các hoạt động khác
của nhà trường luôn được triển khai đồng bộ theo Kế hoạch của Tỉnh ủy, Ủy ban
nhân dân tỉnh, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của địa phương:
Thứ nhất, về công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ
Ngày đầu mới thành lập, trường chỉ có khoảng 60 học viên; kể từ khi tái lập tỉnh đến nay, nhà trường đã đào tạo
128 lớp Trung cấp lý luận Chính trị và Chính trị - Hành chính, 17 lớp Trung cấp
Hành chính và Trung cấp Hành chính- Văn thư, 07 lớp Trung cấp Pháp luật. Bồi
dưỡng ngạch Chuyên viên cho 50 lớp, 03 lớp Chuyên viên chính, 05 lớp Tiền công
vụ, bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, bồi dưỡng chức danh bí thư,
phó bí thư và nhiều chương trình khác. Phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh đào tạo 10 khóa Cao cấp lý luận Chính trị và Lý luận Chính trị -
Hành chính, 03 khóa Cử nhân Chính trị. Phối hợp với Học viện Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh đào tạo 3 khóa Cử nhân hành chính… với hàng vạn lượt học viên.
Tính riêng năm 2014, thực hiện Kế hoạch 66-KH/TU ngày
13/6/2013 của Tỉnh uỷ Nam Định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý các cấp
giai đoạn 2013-2015 và những năm tiếp theo; kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của Uỷ
ban nhân dân tỉnh, nhà trường đã trực tiếp giảng dạy và phục vụ giảng dạy cho
65 lớp với 6.645 học viên, trong đó: Liên kết đào tạo: 03 lớp Cao cấp lý luận
Chính trị và 01 lớp Đại học Hành chính; đào tạo trung cấp các loại: 42 lớp
(trong đó: Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính: 36 lớp; Trung cấp Pháp
luật: 06 lớp); Bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch chuyên viên: 05 lớp;
bồi dưỡng kiến thức QLNN cho cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn 01 lớp; Bồi
dưỡng chức danh bí thư, phó bí thư đảng uỷ cấp xã: 02 lớp; Bồi dưỡng đối tượng
đảng và đảng viên mới: 10 lớp; Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng đối tượng 2: 01
lớp.
Kết quả trên, nếu so với chỉ tiêu kế hoạch tỉnh giao năm 2014: vượt 38%; so
với năm 2013: tăng 14 lớp; đặc biệt năm 2014, nhà trường đã mở thêm hệ đào tạo
các lớp học ngoài giờ hành chính (học vào thứ bẩy, chủ nhật và buổi tối).
Từ đầu năm 2015 đến nay, khai
giảng mới: 16 lớp Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính; 01 lớp Trung cấp
Pháp luật; 02 lớp bồi dưỡng ngạch Chuyên viên chính; 04 lớp bồi dưỡng ngạch
Chuyên viên; 04 lớp Nhận thức về Đảng và
đảng viên mới, 03 lớp bồi dưỡng chức danh cho cán bộ cấp xã…
Với những kết quả đạt được, nhà trường đã góp phần chuẩn
hoá đội ngũ cán bộ, công chức; công tác quy hoạch, sử dụng cán bộ… đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh nhà.
Thứ hai, công tác
nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế
Những năm qua, công tác nghiên cứu khoa học trong nhà trường có bước đổi
mới rõ rệt. Tính từ năm 1997 đến nay, nhà trường đã thực hiện 4 đề tài khoa học
cấp tỉnh, trong đó có 01 đề tài xếp loại Xuất sắc, 4 đề tài xếp loại Khá. Năm
2015, các đơn vị triển khai thực hiện 02 đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, cấp khoa và
các hoạt động nghiên cứu khoa học khác như: Hoạt động hội thảo, sinh hoạt
chuyên môn, viết bài cho các tạp chí chuyên ngành, trang thông tin điện tử của
nhà trường được các đơn vị khoa, phòng, cán bộ, giảng viên, nhân viên duy trì
khá đều đặn.
Nhằm đảm bảo lý luận gắn liền
với thực tiễn, học đi đôi với hành nhà trường luôn coi trọng công tác nghiên
cứu thực tế: 100% đồng chí giảng viên hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu
thực tế. Ngoài ra năm 2014, nhà trường tổ chức cho cán bộ, giảng viên, nhân
viên nhà trường đi nghiên cứu thực tế và trao đổi kinh nghiệm đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ tại một số trường Chính trị các tỉnh phía Bắc (như: Điện Biên, Lai
Châu, Sơn La, Lào Cai, Thanh Hoá, Hải Dương). Với nhiệm vụ này, đã góp phần
từng bước nâng cao chất lượng bài giảng của mỗi giảng viên.
Trong quá trình tổ chức các hoạt động: giảng dạy, quản lý, phục vụ, nghiên cứu
khoa học, nghiên cứu thực tế… các đồng chí cán bộ, giảng viên đều nêu cao tinh
thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn chấp hành và thực hiện nghiêm túc nội
dung, chương trình, quy chế đào tạo của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Bộ Giáo dục - Đào tạo và hệ thống quy chế của Nhà trường.
Thứ ba, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ
Xác định con người là chủ thể,
là nhân tố trung tâm của sự phát triển, những năm qua nhà trường rất coi trọng
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ.
Đến nay nhà trường có tổng
biên chế 53 là đồng chí. Trong đó: Nam
14/53 đồng chí (26,4%); nữ 39/53 đồng chí (73,58%); Nghiên cứu sinh: 03
đồng chí (5,66%); Thạc sỹ: 21 đồng chí (39,62%); Đại học: 28 đồng chí (52,83%);
Cử nhân chính trị: 01 đồng chí (1,85%); Cao cấp chính trị: 25 đồng chí (46,2%);
Giảng viên: 39/53 đồng chí (73,58%); không mang mã ngạch giảng viên: 14/53 đồng
chí (26,4%).
Hàng năm, nhà trường đều động viên, tạo điều kiện cho cán bộ, giảng viên,
nhân viên đi học nâng cao trình độ (Năm 2015, có 03 đồng chí Nghiên cứu sinh,
03 đồng chí đang học Cao học đúng chuyên ngành, 01 đồng chí học Đại học nhằm
chuẩn hóa đội ngũ). Đồng thời, trung bình mỗi năm cử khoảng 30-40 lượt cán bộ,
giảng viên đi tập huấn nâng cao trình độ.
Công tác tự bồi dưỡng, tự học tập và chăm lo chất lượng đội ngũ giảng viên
trẻ cũng được nhà trường chú trọng nhằm chủ động xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng
viên kế cận.
Thứ
tư, công tác xây dựng Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội
Nhà
trường luôn đề cao công tác xây dựng Đảng. Đảng bộ, các chi bộ luôn phát huy
vai trò là hạt nhân chính trị, lãnh đạo mọi mặt hoạt động của cơ quan. Nhiều
năm liên tục, Đảng bộ nhà trường được công nhận là Đảng bộ trong sạch, vững
mạnh tiêu biểu. Trong năm 2015, Đảng bộ nhà trường được Đảng bộ khối các cơ
quan tỉnh lựa chọn là đơn vị Đại hội điểm, bầu trực tiếp Ban Thường vụ, các
chức danh Bí thư, Phó Bí thư tại Đại hội. Quán triệt tinh thần dân chủ, kỷ
cương, trách nhiệm và đoàn kết, Đại hội đã nghiêm túc đánh giá kết quả đạt được
và thẳng thắn chỉ ra những mặt còn tồn tại trong nhiệm kì Đại hội 2010-2015
trên cơ sở đó chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện. Đại hội tổ
chức thành công và bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ nhà trường khóa VIII, nhiệm kì
2015-2020 gồm 9 đồng chí và 03 đồng chí trong Ban Thường vụ Đảng ủy.
Cùng
với công tác xây dựng Đảng, các tổ chức chính trị xã hội: Công đoàn, Ban Nữ
công, chi hội Cựu chiến binh, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh,... nhà trường cũng không
ngừng chăm lo và củng cố. Nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức
từng bước được đổi mới, đa dạng, linh hoạt phù hợp với điều kiện thực tiễn của
đơn vị. Phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt, quản lý và phục vụ tốt”, hội
giảng cấp khoa, cấp trường, cấp Học viện, dự giờ thường xuyên đối với giảng
viên trẻ... được toàn thể cán bộ, viên chức nhà trường nhiệt tình hưởng ứng.
Thứ
năm, về cơ sở vật chất
Cùng
với sự trưởng thành của nhà trường, Tỉnh ủy, HĐND-UBND tỉnh đã quan tâm đầu tư
về cơ sở vật chất. Ban đầu, nhà trường được tiếp quản khu nhà lá, nơi làm việc
tạm thời của Đoàn cải cách ruộng đất Tỉnh ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng,
huyện Xuân trường (thuộc khu vực trường phổ thông Xuân Trường hiện nay), nay
nhà trường đã có trụ sở tương đối khang trang với khuôn viên rộng gần 1ha.
Trong đó có: 01 hội trường lớn, 04 nhà 3 tầng và 01 nhà câu lạc bộ. Trang thiết
bị phục vụ dạy và học: 01 phòng máy vi tính với 20 máy và 04 máy tính xách tay;
08 máy chiếu gắn tại các hội trường; 02 hội trường lắp đặt điều hoà nhiệt độ và
camera (Hội trường I, II và khu vực nhà để xe học viên phía sau Hội trường I);
100% giảng viên, nhân viên được trang bị máy tính cố định.
Tuy vậy, hệ thống cơ sở vật chất hiện có của Nhà trường
vẫn còn khá khiêm tốn so với các trường trong khu vực và so với nhiệm vụ chính
trị của một trường đào tạo cán bộ của tỉnh.
Với những thành tích đã đạt được qua 59 năm không ngừng nỗ lực phấn đấu, trường
Chính trị Trường Chinh đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng
Ba (năm 1998), hạng Nhì (năm 2001), hạng Nhất (năm 2006); Bằng khen của Thủ
tướng Chính phủ (năm 2004); 4 Cờ thi đua xuất sắc của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh; Cờ
của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Cờ của Công đoàn Viên chức Việt Nam;
nhiều Bằng khen của UBND tỉnh, của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Cá nhân: 03 đồng chí được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba; 11 đồng
chí được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; nhiều đồng chí đạt danh hiệu
“Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh”, Bằng khen của Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh và của UBND tỉnh; 09 đồng chí được tặng huy hiệu 30 năm tuổi
Đảng; 43 đồng chí được tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp giáo dục” cùng nhiều
danh hiệu thi đua khác.
Nhìn lại chặng đường 59 năm, mặc dù có nhiều cố gắng và đạt những thành
tích quan trọng, nhưng nhà trường cũng nhận thấy còn có những tồn tại cần khắc
phục: Nội dung đào tạo, bồi dưỡng chưa trang bị đầy đủ cho học viên năng lực
vận dụng lý luận vào thực tiễn. Đổi mới phương pháp giảng dạy chưa thật đồng
bộ. Một số giảng viên kiến thực tiễn chưa nhiều, việc đáp ứng nhu cầu của người
học còn hạn chế. Công tác quản sinh có lớp chưa thật chặt chẽ.
Nhân Kỷ niệm 59 năm ngày thành lập trường (9/6/1956-9/6/2015), đồng chí
Bạch Ngọc Chiến - Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh khẳng
định: “Trải qua 59 năm xây dựng và trưởng
thành, nhà trường đã đào tạo, bồi dưỡng cho tỉnh hàng vạn cán bộ đạt trình độ sơ
cấp, trung cấp. Đội ngũ cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng tại trường đã được trang
bị có hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối
quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nghiệp vụ và kỹ năng
công tác Đảng, công tác đoàn thể. Thực tiễn đã chứng minh, đội ngũ cán bộ được đào
tạo tại trường thường xuyên giữ bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực
chuyên môn, năng lực thực tiễn hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần vào sự
phát triển của tỉnh qua các thời kỳ cách mạng… Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh và nhân
dân toàn tỉnh ghi nhận, đánh giá cao thành tích và những đóng góp của nhà trường
cho sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cán bộ cho tỉnh; góp phần xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và công tác xây dựng Đảng. Tôi mong
rằng trong thời gian tới, nhà trường tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết,
phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp xây dựng quê hương Nam Định ngày càng giàu đẹp, văn minh”.
Quán triệt sự chỉ đạo đó, trên tinh thần phát huy thành tích, khắc phục,
giải quyết những tồn tại hạn chế, trong những năm tới nhà trường cần tiến hành
đồng bộ một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục tham
mưu với tỉnh trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngày càng chuẩn hóa, đáp
ứng nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và sự phát
triển của tỉnh Nam Định nói riêng, bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ của nhà
trường.
Hai là, nâng cao chất
lượng toàn diện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; mở rộng quy mô; đa dạng hoá
các loại hình đào tạo, bồi dưỡng; tập trung thực hiện chương trình bồi dưỡng
cán bộ theo chức danh; liên kết với các cơ sở đào tạo mở các lớp đại học theo quy
định.
Ba là, xây dựng đội ngũ
cán bộ, giảng viên đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất đạo đức tốt, tác phong mẫu mực trong sinh hoạt, trình độ chuyên
môn cao, phương pháp công tác và giảng dạy tốt, kiến thức thực tiễn phong phú,
tâm huyết với nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức trong thời kỳ mới, tiếp tục kế thừa, phát huy truyền thống dạy và học của
nhà trường.
Bốn là, tiếp tục giữ
vững sự đoàn kết, thống nhất trong nhà trường, xây dựng Đảng bộ và các tổ chức
đoàn thể vững mạnh. Mở rộng mối quan hệ giữa nhà trường với các sở, ban, ngành,
địa phương trong tỉnh, Cụm thi đua các tỉnh thuộc khu vực Nam đồng bằng Sông
Hồng và các trường Chính trị trong cả nước.
Năm là, sử dụng hiệu quả
cơ sở vật chất hiện có của Nhà trường. Tăng cường xây dựng theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hoá cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học đúng với
tinh thần Nghị quyết 22 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, hướng tới
xây dựng trường Chính trị cấp tỉnh đạt chuẩn theo quy định của Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh. Hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng các dự án
cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất của nhà trường.
Nhìn lại chặng đường lịch sử quang vinh, vừa giảng dạy, vừa xây dựng trong
59 năm qua, mỗi cán bộ, giảng viên, nhân viên qua các thời kỳ tràn đầy niềm tự
hào, phấn khởi và tin tưởng vào sự phát triển của nhà trường. Các thế hệ đi
trước đã làm tròn nhiệm vụ, thế hệ mới hôm nay nguyện mang hết tâm sức, trí tuệ
của mình giữ vững và phát huy truyền thống vẻ vang đó, xứng đáng với tên gọi:
Trường Chính trị Trường Chinh./.
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG TRIỂN KHAI SOẠN GIẢNG
CÁC BÀI “NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH”
TRONG CHƯƠNG TRÌNH TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH CHỈNH SỬA, BỔ SUNG
ThS. Hoàng Đình Trung
Phó Giám đốc
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của cán bộ, Người khẳng định “Công
việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”, với ý nghĩa
đó, trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta
luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, mà trước hết là trình độ lý luận
chính trị của đội ngũ cán bộ. Thực tiễn 30 năm đổi mới đã cho thấy, trình độ lý luận và năng lực tư duy chính trị của
cán bộ có vai trò quan trọng đối với chất lượng và năng lực làm việc của cán
bộ. Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ có thể thực hiện bằng nhiều
phương thức, song tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng là phương thức quan
trọng, chủ yếu và hiệu quả nhất. Qua thực tiễn triển khai chương trình đào tạo
Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính đối
với cán bộ cơ sở, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhận thấy cần
có đổi mới chương trình nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ trong điều kiện
mới. Sau một năm triển khai cho thấy chương trình Trung cấp lý luận Chính trị -
Hành chính chỉnh sửa, bổ sung đã khắc phục được những hạn chế của chương trình
đào tạo trước đây. Đó là sự thay đổi về kết cấu bài học trong từng phần học,
việc giảm tải thời gian giảng dạy lý thuyết, tăng cường các buổi thảo luận và
đặc biệt là thời gian học viên tự học.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai soạn giảng có những khó khăn nhất định
trong bài viết này, tác giả tập trung trao đổi một số kinh nghiệm trong triển
khai soạn, giảng dạy phần học “Những vấn
đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Theo chương trình, giáo trình lượng kiến thức trong các bài nhiều, trong
khi đó thời gian giảng dạy trên lớp lại giảm đi so với chương trình cũ; đối
tượng học viên tham gia học tập rất đa dạng
và trình độ không đồng đều. Trong quá trình triển khai, giảng viên còn lúng
túng từ việc xác định trọng tâm của từng bài; nội dung và phương thức thực hiện
giờ thảo luận; hướng dẫn nội dung tự học của học viên. Theo chúng tôi, những
hạn chế trên xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, nội dung các
phần học quá nhiều so với lượng thời gian giảng viên được giảng dạy và tổ chức
thảo luận trên lớp.
Thứ hai, trong quy định chương trình số tiết học viên tự nghiên
cứu (tự học) chiếm trên 45% tổng số tiết, song lại chưa có quy định về việc
hướng dẫn của giảng viên và đánh giá kết quả tự nghiên cứu của học viên. Điều
đó, dẫn tới thực tế, nội dung này khó thực hiện.
Thứ ba, thiếu chủ động
và thống nhất trong việc xác định phần trọng tâm của từng bài giảng trên cơ sở
đối tượng học viên.
Thứ tư, giảng viên chưa kịp làm quen với việc xây dựng soạn
giảng và triển khai thảo luận trên lớp theo quy định
của chương trình chỉnh sửa, bổ sung. Thực tế đó thể hiện rõ trong các giáo án giảng dạy, nội dung thảo luận được chuẩn bị còn sơ
sài trong giáo án của giảng viên.
Để triển khai có hiệu quả công tác soạn giảng và
giảng dạy phần học này, theo chúng tôi cần tập trung vào một số nội dung sau:
Tăng cường công tác quản lý
chuyên môn của Hội đồng khoa học nhà trường nhằm bảo đảm tính khoa học và thống
nhất trong công tác soạn giảng và giảng dạy. Cụ thể là, cần
phải có chỉ đạo khoa chuyên môn xây dựng kế hoạch triển khai công tác soạn
giảng đối với từng bài giảng. Trong đó, xác định rõ nội dung trọng tâm của từng
bài, nội dung thảo luận trên lớp và nội dung học viên tự học. Trên cơ sở đó,
Hội đồng khoa học nhà trường hoặc Thường trực Hội đồng khoa học nghiên cứu thực
hiện. Theo đó, cần đổi mới quá trình tuyển sinh, mở lớp theo hướng phân loại
đối tượng học viên sẽ thuận lợi hơn cho việc lựa chọn nội dung giảng dạy.
Đối với khoa chuyên môn, phải
tăng cường các buổi sinh hoạt chuyên môn, tập trung nghiên cứu, thảo luận để
xây dựng phương án soạn giảng đối với từng bài giảng. Học viên hiện
nay rất đa dạng về lĩnh vực công tác và trình độ nhận thức. Đối tượng học viên
là cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc dự nguồn thuộc các sở,
ban, ngành cấp tỉnh, huyện; học viên thuộc lĩnh vực giáo dục thuộc các cấp học
từ mẫu giáo đến cao đẳng, đại học trong tỉnh và học viên là cán bộ, công chức
cấp xã (xã, phường, thị trấn). Trình độ, nhu cầu nhận thức và hiểu biết thực
tiễn rất khác nhau. Điều đó yêu cầu việc soạn giáo án phải có đổi mới, không
thể áp dụng một loại giáo án cho mọi lớp học. Để đạt hiệu quả cao trong giảng
dạy, cần phải xác định cụ thể về nội dung, phương pháp giảng dạy và thảo luận
đối với từng lớp học cụ thể. Thực tế, đây là công việc cần thiết nhưng chưa
được quan tâm thực hiện.
Đặc biệt là phải đầu tư thời gian và nghiêm túc việc nghiên
cứu biện pháp để nâng cao chất lượng phần tự nghiên cứu của học viên. Đây là công việc quan trọng, bảo
đảm hiệu quả của triển khai chương trình đào tạo. Với trên 45% tổng số tiết học viên tự học cho
thấy, việc phát huy vai trò tích cực, chủ động trong học tập của học viên trong
quá trình đào tạo là mục tiêu đặt ra của chương trình chỉnh sửa, bổ sung. Nếu
không có kế hoạch và phương thức triển khai cụ thể sẽ không thể đạt được mục
tiêu của chương trình. Theo chúng tôi, đối với mỗi bài, mỗi lớp cần xác định cụ thể nội dung học viên tự học. Xác định
phương thức đánh giá kết quả tự học của học viên. Bên cạnh đó, phải có
quy định nhằm bảo đảm kết quả các bài luận là điều kiện đánh giá ý thức học tập
và xét điều kiện thi hết môn học. Trong điều kiện chưa có hướng dẫn của Học
viện, càng đòi hỏi sự chủ động, linh hoạt của các trường và khoa chuyên môn
trong triển khai nội dung này.
Thực hiện nghiêm túc việc soạn giảng và thực hiện giờ thảo
luận. Kết cấu nội
dung của chương trình chỉnh sửa, bổ sung số tiết thảo luận được tăng lên nhiều
hơn so với chương trình trước đây. Thực tế, phần lớn giảng viên chưa chủ động
và thực hiện soạn giảng nội dung và hiệu quả các tiết thảo luận chưa cao; giảng
viên chưa chủ động thực hiện, học viên chưa tích tực tham gia thảo luận tình
trạng không thực hiện diễn ra khá phổ biến. Vì vậy, nâng cao chất lượng và hiệu
quả các buổi thảo luận là rất cần thiết. Theo chúng tôi, để thực hiện giờ thảo
luận có hiệu quả, cần phải xác định rõ nội dung, phương pháp thực hiện (có nội
dung, Hội đồng khoa học nhà trường cần có hướng dẫn).
Sau một năm triển khai
chương trình Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính chỉnh sửa, bổ sung cho
thấy, nội dung, kết cấu chương trình, giáo trình là phù hợp, đáp ứng được mục
đích và yêu cầu công tác đào tạo. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, các
trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động nghiên cứu và
tổ chức thực hiện bảo đảm đúng quy chế, quy định và phù hợp với tình hình của
địa phương, đơn vị./.
TÌM HIỂU MỘT
SỐ ĐIỂM MỚI CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 04/2015/NĐ-CP NGÀY 09/01/2015 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ
THỰC HIỆN DÂN CHỦ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC VÀ ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
CN. Lê Thị Thu Phượng
Giảng viên khoa
Dân vận
Ngày 09/01/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 04/2015/NĐ-CP quy định về thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập (gọi tắt là Nghị
định số 04/2015/NĐ-CP) thay thế cho Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998 của Chính phủ về ban hành
Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan (gọi tắt là Nghị định số
71/1998/NĐ-CP). Nghị định số
04/2015/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày
25/02/2015 gồm 4 chương, 18 điều (giảm 18 điều so với Nghị định số
71/1998/NĐ-CP) quy định theo từng nhóm vấn đề trong hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập: Những quy định chung, dân chủ
trong nội bộ cơ quan, đơn vị; dân chủ trong quan hệ và giải quyết công việc với
công dân, cơ quan, tổ chức có liên quan và điều khoản thi hành. Nội dung của Nghị định số 04/2015/NĐ-CP cụ
thể, rõ ràng và có nhiều điểm mới so với Nghị định số 71/1998/NĐ-CP.
- Về đối tượng điều chỉnh:
Nếu như ở Nghị định số 71/1998/NĐ-CP chỉ nêu đối tượng điều chỉnh
chung chung và phạm vi hẹp (cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến cấp
huyện) thì ở Nghị định số 04/2015/NĐ-CP quy định rộng hơn (của cơ quan hành chính nhà nước và
đơn vị sự nghiệp công lập) và chỉ rõ đối tượng áp dụng là cán bộ, công chức,
viên chức kể cả cán bộ, công chức cấp xã. Việc đưa ra quy định này đã góp phần
khắc phục những nhược điểm của Nghị định số 71/1998/NĐ-CP tạo căn cứ pháp lý
nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức nói chung và cán bộ, công
chức cấp xã nói riêng đối với việc thực hiện nghiêm các quy định về quy chế dân
chủ ngay từ cơ sở.
- Về kết cấu nội dung:
Kết cấu nội dung của Nghị định số 04/2015/NĐ-CP khoa học hơn so với Nghị
định số 71/1998/NĐ-CP. Ở Nghị định số 71/1998/NĐ-CP cùng một vấn đề nhưng lại
nằm rải rác ở nhiều điều (ví dụ, cùng là trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan, đơn vị được quy định tại 8 Điều, từ Điều 04 đến Điều 11; trách nhiệm của
cán bộ, công chức, viên chức được quy định tại 03 Điều, từ Điều 12 đến Điều
14). Nghị định số 04/2015/NĐ-CP đã khắc phục hạn chế này quy định tập trung các
vấn đề trong một điều, sắp xếp các ý lôgíc, và sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, cô
đọng nhằm thuận lợi cho việc nắm bắt và thực hiện tại các cơ quan, tổ chức. Như
tại Điều 4, Nghị định số 04/2015/NĐ-CP Quy định trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan, đơn vị (gồm 10 khoản); Điều 6. Trách nhiệm của cán
bộ, công chức, viên chức (gồm 5 khoản).
- Về một số nội dung cụ thể được
sửa đổi, bổ sung:
So với Nghị định số 71/1998/NĐ-CP, Nghị định số 04/2015/NĐ-CP cũng đã sửa
đổi một số điều cụ thể. Như tại Điều 5 của Nghị định số 04/2015/NĐ-CP, Hội nghị
cán bộ, công chức được đổi tên thành Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức nhằm
thể hiện đầy đủ đối tượng áp dụng của Nghị định, tránh trường hợp mỗi đơn vị
gọi mỗi tên khác nhau như thực tế hiện nay. Nghị định số 04/2015/NĐ-CP quy định
rõ “Người đứng đầu cơ quan, đơn vị chủ trì, phối hợp với công đoàn cơ quan, đơn
vị tổ chức hội nghị cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị mỗi năm
một lần vào cuối năm. Thành phần dự hội nghị bao gồm toàn thể hoặc đại biểu cán
bộ, công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị” (Khoản 1 Điều 5).
Việc tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức bất thường “khi có một
phần ba cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị hoặc Ban Chấp hành
công đoàn cơ quan, đơn vị yêu cầu hoặc người đứng đầu cơ quan, đơn vị thấy cần
thiết” (Khoản 1 Điều 5). Đây cũng là một điểm mới so với Nghị định số 71 trước
kia quy định phải có hai phần ba cán bộ, công chức.
Nghị định số 04/2015/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung các nội dung của Hội nghị
cán bộ, công chức, viên chức. Nếu như ở Nghị định số 71/1998/NĐ-CP chỉ quy định
những việc cán bộ, công chức phải được biết, được tham gia ý kiến, và giám sát
kiểm tra (Mục 3, 4, 5) thì ở Nghị định số 04 đã bổ sung thêm quyền biểu quyết
thông qua của cán bộ, công chức, viên chức “Thông qua Quy chế chi tiêu nội bộ
của cơ quan, đơn vị; phát động phong trào thi đua và ký kết giao ước thi đua
giữa người đứng đầu cơ quan, đơn vị với tổ chức công đoàn” (Khoản 2 Điều 5) và
đây được xác định là 01 trong 06 nội dung phải thực hiện của Hội nghị cán bộ,
công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị.
Ngoài ra, Nghị định số 04/2015/NĐ-CP cũng đã bổ sung một số nội dung so với
Nghị định số 71 theo hướng cụ thể, đầy đủ hơn. Ví dụ, tại Điều 4 bổ sung thêm
quy định ở Khoản 9, Khoản 10 “Xem xét, giải quyết kịp thời theo quy định của
pháp luật các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cán bộ, công chức, viên chức và
kiến nghị của Ban Thanh tra nhân dân của cơ quan, đơn vị; kịp thời báo cáo với
cơ quan có thẩm quyền những vấn đề không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình”
và “Kịp thời xử lý người có hành vi cản trở việc thực hiện dân chủ trong hoạt
động của cơ quan, đơn vị và người có hành vi trả thù, trù dập cán bộ, công
chức, viên chức khiếu nại, tố cáo, kiến nghị theo quy định của pháp luật”. Hay
như tại Điều 7, đã bổ sung thêm 2 việc phải công khai cho cán bộ, công chức,
viên chức được biết: Kết quả tiếp thu ý kiến của cán bộ, công chức, viên chức
về những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
đưa ra lấy ý kiến cán bộ, công chức, viên chức; văn bản chỉ đạo, điều hành của
cơ quan quản lý cấp trên liên quan đến công việc của cơ quan, đơn vị (Khoản 8
và 9).
Như vậy, với việc ban hành Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của
Chính phủ quy định về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan nhà nước và
đơn vị sự nghiệp công lập đã thay thế Nghị định 71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998 của Chính phủ về ban hành
Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan nhằm phát huy mạnh mẽ hơn
nữa quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức và nâng cao trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, đơn vị, góp phần xây dựng cơ quan trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là “công bộc” của
nhân dân, có đủ phẩm chất, năng lực, làm việc có năng suất, chất lượng, đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế. Đồng thời, tăng cường phòng ngừa, ngăn chặn và chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân./.
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG GIẢNG DẠY HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN CHƯƠNG
TRÌNH TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
CN. Nguyễn
Thị Hiệp
Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh
Bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác - Lênin
được thể hiện ở chỗ, cung cấp cơ sở lý luận để hình thành thế giới quan duy vật
và phương pháp luận biện chứng, là kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức và cải
tạo xã hội. Xuất phát từ vai trò ấy, triết học Mác-Lênin còn là sự thống nhất
hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn, đây là nguyên tắc nền tảng của chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Lý luận theo tiếng Hy Lạp là “theoria” nghĩa là sự quan sát, nghiên cứu,
nhận ra, thảo luận. Có nhiều cách hiểu về lý luận, song có thể hiểu Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ những kinh nghiệm thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới
khách quan. Còn Thực tiễn là toàn bộ
hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Giữa lý luận và thực tiễn có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Do đó, “Trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn cần có sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, đây là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”. Về vấn đề lý luận
phải liên hệ thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin… lý luận mà
không liên hệ với thực tế là lý luận suông”,
đó là thứ lý luận xa rời và không giúp ích gì cho thực tế cuộc sống. Lý luận
không đứng im, chết cứng, nó luôn luôn cần đến thực tiễn để được thực tiễn bổ
sung, hoàn thiện bằng những kết luận mới trong những điều kiện, hoàn cảnh mới.
Xuất phát từ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, giảng dạy triết học Mác-Lênin cần quán triệt nguyên tắc, gắn lý luận với
thực tiễn. Triết học là môn khoa học trừu tượng với hệ thống những nguyên lý,
quy luật, phạm trù. Những nguyên lý, quy luật, phạm trù trong triết học phải
được minh chứng cụ thể trong cuộc sống, trong đường lối phát triển đất nước, đó
là yêu cầu phản ánh mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy triết
học. Theo đó chất lượng giảng dạy triết học mới đạt hiệu quả cao, đảm bảo mục
tiêu, chương trình đào tạo là nâng cao trình độ lý luận và năng lực tư duy lý
luận của cán bộ, đồng thời giúp người học vận dụng lý luận giải quyết những vấn
đề thực tiễn tại địa phương, đơn vị công tác, thực hiện đúng theo lời căn dặn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trường Đảng là một trường học để đào tạo những chiến
sỹ tiên tiến phấn đấu cho sự nghiệp của giai cấp vô sản, chứ không phải biến
các đồng chí thành những người lý luận suông mà nhằm làm thế nào cho công tác
của các đồng chí tốt hơn”,
“Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ để nâng cao trình độ lý luận của
Đảng ta đặng để giải quyết sự đòi hỏi của
nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế…, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công
tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng của mình”.
Trong thời gian qua, việc giảng dạy và học tập triết học đã đạt được
những kết quả nhất định. Thực tiễn cán bộ sau khi học chương trình Trung cấp Lý
luận Chính trị - Hành chính đã vận dụng tốt những kiến thức đã học vào quá
trình công tác, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Tuy
nhiên, xuất phát từ yêu cầu của công tác đào tạo trong giai đoạn mới hiện nay,
và việc mở rộng đối tượng học tập không dừng lại ở cán bộ cấp cơ sở mà còn bao
gồm cán bộ quản lý thuộc các sở, ban, ngành, các giảng viên tại các trường
học…đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nâng cao hơn nữa sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong giảng dạy.
Để nâng cao tính thực tiễn
trong giảng dạy học phần Triết học Mác-Lênin chương trình Trung cấp Lý luận
Chính trị - Hành chính cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
1. Trước hết, giảng viên phải nắm vững các nội
dung lý luận mà mình đảm nhiệm giảng dạy. Trong bài giảng các nội dung lý
luận trong bài giảng đều cần có liên hệ thực tế, việc lựa chọn những vấn đề
quan trọng, cần thiết nhấn mạnh những vấn đề khó hiểu, hoặc muốn tăng thêm tính
thuyết phục cho nội dung bài giảng, việc liên hệ là vô cùng cần thiết.
Nắm vững lý luận còn giúp giảng viên lựa chọn kiến thức
thực tiễn, mức độ liên hệ phù hợp. Như chúng ta biết, thực tiễn rất phong phú
và đa dạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Thực tế của chúng ta là những vấn đề
mà cách mạng đề ra cho ta giải quyết. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó bao gồm kinh
nghiệm công tác tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng cho đến
các vấn đề trong nước và trên thế giới. Đó là những thực tế mà chúng ta cần
liên hệ…”.
Một vấn đề lý luận có thể có nhiều hiện tượng, hoạt động thực tiễn để liên hệ,
phân tích, chứng minh. Do vậy để tránh sự trùng lặp, đơn điệu, các liên hệ sát,
phù hợp với những vấn đề lý luận nhất thiết giảng viên phải nắm vững kiến thức
lý luận của từng tiết, từng mục, từng bài và toàn bộ nội dung mà mình đảm
nhiệm.
2. Xây dựng kế
hoạch trong việc soạn, giảng, bảo đảm nguyên tắc gắn lý luận với thực tiễn, cụ
thể là:
Một là, người
giảng viên phải nắm được đối tượng người học. Cùng một chuyên đề nhưng giảng
dạy tại các lớp học khác nhau, với trình độ chuyên môn, độ tuổi khác nhau cần
có những sự liên hệ với thực tiễn khác nhau. Nắm bắt được đối tượng sẽ giúp lựa
chọn kiến thức thực tiễn hoặc cách khai thác nhấn mạnh khía cạnh nào trong cùng
một sự kiện để phù hợp đối tượng.
Hai là, những yếu tố thực tiễn đưa vào bài giảng
phải mang tính điển hình. Phải đảm bảo tính khoa học khi đưa các yếu tố
thực tiễn vào bài giảng. Yếu tố thực tiễn đưa vào bài giảng phải có tính tiêu
biểu, tính thời sự, tính chính xác, có địa chỉ rõ ràng và phù hợp nội dung lý
luận đang cần được phân tích chứng minh.
Ba là, các sự kiện thực tiễn phải mang tính thời
sự, đang được xã hội quan tâm nhiều. Nâng cao và chú trọng lý giải những
vấn đề mới về phương diện khoa học, những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra.
3. Giảng viên
phải thường xuyên bám sát thực tiễn. Kết hợp các phương thức khác nhau để tiếp
cận với các hình thức, các mức độ của thực tiễn. Ví dụ: Đi thực
tế cơ sở (xã, phường, thị trấn, doanh nghiệp…), gặp gỡ trao đổi với cán bộ, hội
viên nông dân, phụ nữ, đến với các tổ chức công đoàn cơ sở gặp gỡ cán bộ, đoàn
viên công đoàn, công nhân; thăm quan các các mô hình lao động sản xuất, để có
thực tiễn trực tiếp sinh động, thời sự. Hoặc tích cực khai thác thông tin ở các
phương tiện thông tin đại chúng (đài, báo, tạp chí, Internet,…) để có thực tiễn
đa chiều, rộng lớn đã được chọn lọc, phân tích. Nghiên cứu các tài liệu chính
thống, nhất là các văn kiện hội nghị, Đại hội Đảng,…đây là dạng thực tiễn có độ
tin cậy cao, vừa có tính cụ thể, vừa có tính khái quát.
Như vậy, để có tính thực tiễn của bài giảng lý luận một
cách phù hợp là một đòi hỏi cao đối với giảng viên. Giảng viên trước hết phải
nắm chắc nội dung lý luận chính trị mà mình đảm nhiệm giảng dạy, để qua đó có
sự lựa chọn đúng, vận dụng có hiệu quả lý luận vào thực tiễn; đồng thời phải
thường xuyên bám sát thực tiễn, tích cực gắn với cơ sở, đi nghiên cứu thực tế,
tìm đọc các thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy: Trong thực tiễn
giảng dạy môn Triết học cũng như các bộ môn khoa học lý luận chính trị hiện
nay, việc đảm bảo tính gắn kết, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đang được
đặt ra như một yêu cầu, một nguyên tắc tối quan trọng và mang tính tất yếu khách
quan nhằm nâng cao hiệu quả công tác giảng dạy - đào tạo. Mỗi giảng viên cần
phải quán triệt yêu cầu của nguyên tắc, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi
phát hiện các giải pháp có tính khả thi nhằm thực hiện nguyên tắc gắn lý luận
với thực tiễn. Đây là trách nhiệm của toàn thể giảng viên, cán bộ giảng dạy
chính trị./.
NÂNG CAO
TÍNH THỰC TIỄN TRONG CÁC BÀI GIẢNG
CỦA GIẢNG
VIÊN TRẺ
CN. Trần Thùy Dương
Giảng
viên khoa Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Việc
gắn lý luận với thực tiễn trong các bài giảng ở trường Chính trị là yêu cầu cần thiết nhằm hướng đến việc nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của tỉnh Nam
Định. Nội dung giảng dạy của các môn học trong chương trình Trung cấp Lý luận
Chính trị - Hành chính chủ yếu là kiến thức lý luận. Nhiệm vụ của giảng viên là
cụ thể, đơn giản hóa những kiến thức lý luận để học viên dễ tiếp thu và dễ vận
dụng vào quá trình công tác. Để đạt được điều này người giảng viên phải biết
khéo léo đưa những kiến thức thực tiễn vào bài giảng, gắn lý luận với thực
tiễn.
Gắn lý luận với thực tiễn là công việc không đơn giản đòi hỏi kinh nghiệm
giảng dạy và sự dạn dày trong thời gian công tác của giảng viên. Trong 5 năm
gần đây, đội ngũ giảng viên có nhiều biến động: 17 đồng chí cán bộ, giảng viên
thuyên chuyển công tác và nghỉ hưu theo chế độ, trong đó 04 đồng chí thuyên
chuyển công tác, 13 đồng chí nghỉ hưu theo chế độ. Đa số là lãnh đạo chủ chốt
của Nhà trường và lãnh đạo các khoa, phòng. Để tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao đầu năm 2013 trường đã tuyển dụng 9 đồng chí giảng viên trẻ, là những
cử nhân mới ra trường. Đầu năm 2015, trường tuyển 05 giảng viên và 02 hợp đồng
giảng dạy (đang học thạc sĩ) tất cả đều còn rất trẻ từ 24 đến 33 tuổi. Hiện nay
nhà trường có 39 giảng viên (số giảng viên trẻ chiếm tới khoảng 41%). Nếu tính
trung bình số năm công tác của toàn bộ giảng viên nhà trường thì chưa đến 10
năm
Về ưu điểm các giảng viên trẻ của trường đều là những cử nhân của các
trường đại học có tiếng trong cả nước như: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Hành chính, Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn… phù hợp với chuyên ngành giảng dạy và đều tốt nghiệp từ loại khá trở
nên, có người đang học thạc sĩ, có người có 2 bằng đại học, vì thế về mặt lý
luận, các giảng viên trẻ đều được đào tạo bài bản, có hệ thống. Hơn nữa, các
giảng viên được tuyển chọn đã qua quá trình tuyển dụng thi giảng rất nghiêm túc
của Tỉnh ủy và nhà trường. Các giảng viên trẻ là những người năng động, nhiệt
tình trong công tác, hăng hái phấn đấu và tích cực học tập, rèn luyện về chuyên
môn; biết kết hợp sáng tạo các phương pháp khác nhau, đặc biệt sử dụng thành
thạo các phương tiện dạy học hiện đại, nhanh nhạy trong việc nắm bắt thông tin
mới.
Tuy nhiên, đây là khó khăn rất lớn của Nhà trường vì: Đối tượng giảng dạy
của trường đều là những cán bộ chủ chốt của Đảng, chính quyền và các đoàn thể
nhân dân ở cấp cơ sở, về tuổi đời lớn hơn rất nhiều so với các giảng viên trẻ.
Hơn nữa, kiến thức lý luận của họ có thể còn thiếu nhưng kiến thức thực tiễn
lại vô cũng phong phú, dày dạn kinh nghiệm bởi họ đều là những người quản lý,
trực tiếp hoặc gián tiếp điều hành công việc của cả một xã, phường, thậm chí là
cả một huyện. Còn những giảng viên trẻ đặc biệt là những giảng viên mới ra trường,
kiến thức thực tiễn và kinh nghiệm giảng dạy còn ít, chưa được va vấp nhiều,
chưa được tiếp cận nhiều với các công việc thực tế ở địa phương nên các bài
giảng còn khô khan, trừu tượng, thiếu tính thực tiễn, gây tâm lý căng thẳng,
chán nản cho một số học viên khi ngồi nghe.
Bản thân các giảng viên trẻ luôn ý thức được việc giảng dạy trong một ngôi
trường đào tạo cán bộ cho tỉnh thì cả nội dung lẫn phương pháp khác hoàn toàn
so với giảng dạy cho đối tượng là học sinh, sinh viên. Các giảng viên trẻ như
chúng tôi cũng luôn ý thức phải nâng cao tính thực tiễn trong bài giảng, sử
dụng các phương pháp dạy học tích cực để bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn. Tuy
nhiên, để đưa được những kiến thức thực tiễn vào bài giảng không phải là điều
đơn giản, không phải chỉ một mình giảng viên đó làm được, mà cần sự hỗ trợ,
giúp đỡ từ rất nhiều phía. Vì vậy, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị để
giúp các giảng viên trẻ có thể nâng cao tính thực tiễn trong bài giảng của
mình:
Thứ nhất, đối với các
giảng viên trẻ
Trước hết phải tự mình trau dồi kiến thức lý luận bởi muốn vận dụng được
những kiến thức thực tiễn vào bài giảng thì đòi hỏi giảng viên cần nắm chắc lý
luận. Trong khi đó những giảng viên trẻ đã được trang bị những kiến thức chuyên
ngành nhưng cũng chỉ ở mức cơ bản, thiếu các kiến thức liên ngành nên cần phải
được đào sâu nghiên cứu hơn nữa để có một phông kiến thức rộng, bao quát. Chính
vì kiến thức lý luận chưa chắc nên việc đưa thực tiễn vào bài giảng còn hạn chế
thậm chí còn đưa những kiến thức thực tiễn chưa sát với nội dung cần phân
tích.
Ngoài ra, nhằm bổ sung kiến thức thực tiễn, các giảng viên trẻ cần đọc
nhiều sách báo để có kiến thức phong phú trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là báo
Nam Định để nắm được tình hình kinh tế - xã hội chung của tỉnh và của từng huyện
qua đó có những ví dụ sinh động, sát thực cho bài giảng.
Trong mỗi chuyến đi thực tế, cần xác định trước nội dung mà mình muốn tìm
hiểu, không nên quá ôm đồm.
Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên trẻ cần tích cực làm khoa học, tham gia vào
các đề tài cấp khoa, cấp trường, cấp tỉnh chứ không chỉ dừng lại ở đề tài cá
nhân; tham gia viết bài cho các hội thảo khoa học để đào sâu hơn kiến thức.
Trong quá trình lên lớp, giảng viên
có thể thu thập thêm những kiến thức thực tiễn từ học viên bằng cách thảo luận
nhóm hay bằng phương pháp chuyên gia…. Như vậy học viên vừa thể hiện được những
hiểu biết của mình mà giảng viên lại thu thập được thêm nhiều thông tin bổ ích.
Thường xuyên trao đổi, học hỏi đồng nghiệp trong khoa nói riêng và các khoa
nói chung những kinh nghiệm giảng dạy đặc biệt là những kiến thức thực tiễn
Thứ hai, đối với khoa
phụ trách chuyên môn
Thường xuyên tổ chức những sinh hoạt chuyên môn, duyệt giảng, góp ý trong
khoa để các giảng viên trẻ nắm vững chuyên môn và rút kinh nghiệm cho những bài
giảng của mình. Đây là hoạt động vô cùng ý nghĩa.
Thứ ba, đối với nhà
trường
Cần tổ chức, tạo điều kiện cho các giảng viên, đặc biệt là giảng viên trẻ
có điều kiện thâm nhập thực tế tại các xã, phường trong tỉnh và có thể ở cả các
tỉnh khác và yêu cầu có bài viết thu hoạch sau mỗi chuyến thực tế. Ông cha ta
có câu “đi một ngày đàng học một sàng khôn” quả không sai. Sau mỗi chuyến đi
thực tế, 100% giảng viên trẻ đều nhận thấy bản thân mình trưởng thành hơn, bài
giảng được đánh giá có chiều sâu hơn, phong phú hơn, lý luận khô cứng đã được
các giáo viên làm mềm hơn nhờ các ví dụ thực tiễn.
Nhà trường tạo điều kiện để giảng viên trẻ có thể tham gia các lớp tập huấn
về chuyên môn, nghiệp vụ, các khóa học nâng cao trình độ.
Đội ngũ giảng viên trẻ là một bộ phận quan trọng trong lực lượng giảng viên
của các khoa nói riêng và của Nhà trường nói chung. Vì vậy, việc đào tạo và bồi
dưỡng đội ngũ giảng viên trẻ nâng cao chất lượng bài giảng bằng việc nâng cao
tính thực tiễn trong bài giảng là nhiệm vụ hết sức quan trọng, góp phần định
hướng và bổ sung kịp thời những mặt còn thiếu để giúp cho đội ngũ giảng viên
trẻ sẵn sàng đáp ứng được nhiệm vụ và đòi hỏi của thực tế trong công tác đào
tạo; qua đó sẽ giúp cho mỗi giảng viên tự xây dựng được thương hiệu cho cá nhân
mình, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của Nhà trường
và hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh đặt ra cho Trường
Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định./.
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY MÔN “NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM”
ThS. Trần Thị Huyền Nga
Giảng viên khoa
Xây dựng Đảng
Giáo dục lý luận chính trị là
một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng. Mục tiêu cao nhất của
công tác giáo dục lý luận chính trị trước hết là tạo sự thống nhất trong nội
bộ Đảng cũng như sự đồng thuận trong toàn thể nhân dân nhằm xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, trước tiên là đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở các cấp, các ngành vững vàng về tư tưởng chính trị, gương mẫu về
đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức, năng động hoạt động
thực tiễn, gắn bó với nhân dân.
Giai đoạn hiện nay, để nâng cao
chất lượng đào tạo bồi dưỡng và việc giảng dạy tốt các môn thuộc chương trình
Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính trong đó có môn học “Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam” cho đội ngũ cán bộ cơ sở là một yêu cầu bắt
buộc. Để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đó người cán bộ giảng viên cần phải hội
đủ các phẩm chất và năng lực:
Thứ nhất, giảng dạy Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam yêu cầu người giảng viên cần chú trọng nắm vững tính
đảng và tính khoa học nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trong công cuộc đổi
mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Tính đảng trong giảng dạy lịch sử Đảng đòi hỏi phải đứng vững trên lập
trường, quan điểm, lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh để nhận thức đúng đắn lịch sử Đảng ta trong tiến trình
ra đời, hoạt động và lãnh đạo của Đảng.
Tính khoa học trong giảng dạy lịch sử Đảng là nhận thức hiện thực lịch sử
một cách khách quan, trung thực, không sai lệch. Tính khoa học thúc đẩy tư duy
sáng tạo, suy nghĩ tìm tòi của người giảng để tiếp cận chân lý; khoa học còn
đòi hỏi rèn luyện, nâng cao tư duy lôgíc để tổng kết giá trị khoa học, những
vấn đề lý luận trong lịch sử Đảng ta.
Thứ hai, phải nắm vững
đối tượng người học. Giảng viên cần hiểu rõ về đối tượng học tập của từng lớp
Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính. Cụ thể là nắm được thông tin về nghề
nghiệp, cương vị công tác, độ tuổi, giới tính, nền tảng văn hóa, sự mong muốn,
quan tâm khi học chương trình Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính,…của
người học. Việc xác định rõ đối tượng học viên sẽ giúp cho giảng viên xác định
lượng kiến thức, phương pháp và phương tiện giảng dạy phù hợp.
Thứ ba, giảng dạy đúng
với chương trình và yêu cầu lớp học, khóa học và mục đích, yêu cầu của từng bài
giảng nhằm trang bị tri thức lý luận chính trị cho học viên, giúp học viên vận
dụng vào chỉ đạo hoạt động cải tạo hiện thực một cách linh động, sáng tạo, có
hiệu quả cao nhất. Trong mỗi bài giảng, giảng viên
cần xác định đúng trọng tâm, nội dung chính của bài, nội dung đòi hỏi giảng
viên cần giành nhiều thời gian để làm rõ.
Thứ tư,
đảm bảo sự nhạy cảm về chính trị và thời cuộc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý
luận và thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ: “Lý luận là đem thực tế
trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh
thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực
tế. Đó là lý luận chân chính”.
Tổng kết thực tiễn, hiện thực lịch sử thành lý luận là nhiệm vụ lớn của khoa
học Lịch sử Đảng. Vai trò của người giảng viên cần phải liên hệ với thực tiễn
của thế giới, của đất nước; của địa phương; của bản thân mỗi học viên. Để liên
hệ giảng viên cần gợi mở, đàm thoại, nêu thực tiễn của địa phương, đất nước hay
cá nhân và từ đó khái quát làm sáng tỏ về mặt lý luận.
Thứ năm, cần nắm
vững và vận dụng thành công hệ thống các phương pháp trong nghiên cứu khoa học
lịch sử nói chung và trong khoa học Lịch sử Đảng nói riêng, đặc biệt phải kết
hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc. Hướng việc
trình bày sự kiện, hiện thực Lịch sử Đảng theo quá trình hình thành, phát triển
nhằm cung cấp và tìm hiểu những tri thức cần thiết về lịch sử lãnh đạo, đấu
tranh của Đảng trên tất cả lĩnh vực và trên nền của hiện thực lịch sử, với tư
duy khoa học giảng viên tổng kết thành những kết luận mang tính bản chất, khẳng
định giá trị và ý nghĩa lịch sử của các sự kiện lịch sử. Như vậy, sự kết hợp
nhuần nhuyễn phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là tuyệt đối cần thiết
trong cả dạy và học lịch sử Đảng. Trong điều kiện đổi mới mạnh mẽ cả phương
pháp dạy và học không chỉ coi trọng về thuyết trình mà cần thiết đối thoại với người
học, nêu câu hỏi để cùng tìm hiểu, học tập.
Thứ sáu, nâng
cao chất lượng của hoạt động thảo luận, tự học của học viên nhằm “biến quá
trình đào tạo thành tự đào tạo”. Đây là một vấn đề quan trọng, thiết thực cho
đổi mới phương pháp của giảng viên, thông qua thảo luận tạo điều kiện cho học
viên trực tiếp trao đổi, thảo luận đưa ra những chính kiến cả về lý luận và
thực tiễn; những đánh giá cá nhân… Thảo luận giúp giảng viên biết mức độ nắm
được bài giảng của học viên; hiệu quả đạt được của phương pháp giảng dạy; lỗ
hổng kiến thức để tự mình điều chỉnh bổ sung.
Trước
yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta giai đoạn hiện nay đòi hỏi đội ngũ cán
bộ, giảng viên phải có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác
mới đáp ứng được yêu cầu của cách mạng. Để thực hiện tốt Nghị quyết của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về “chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về lý luận
chính trị, phẩm chất đạo đức, thì đội ngũ giảng dạy lý luận chính trị nói
chung, giảng dạy môn “Những vấn đề cơ bản
về Đảng Cộng sản và Lịch sử Đảng Cộng sản” nói riêng cần phải phấn đấu hơn
nữa nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo, đội ngũ cán bộ đủ đức,
đủ tài thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN./.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG
CHINH
CN. Lê Tiến Dũng
Trưởng
phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu
Đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH) là hai hoạt động có mối quan hệ biện
chứng, là nhiệm vụ cơ bản của các trường Chính trị cấp tỉnh. Việc giảng viên
tích cực tham gia các hoạt động NCKH là một trong những biện pháp quan trọng,
bắt buộc và cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
công tác huấn luyện cán bộ hiện nay. Thực tiễn và lý luận đều chứng minh NCKH và giảng dạy quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt
chẽ và hỗ trợ nhau. NCKH tạo cơ sở, điều kiện, tiền đề nhằm thực hiện tốt nhiệm
vụ giảng dạy. Ngược lại, giảng dạy phản ánh kết quả của hoạt động NCKH. Do vậy,
có thể khẳng định, cùng với hoạt động giảng dạy, NCKH là thước đo năng lực
chuyên môn của giảng viên các trường Chính trị.
Giảng dạy luôn được coi trọng hàng đầu, là tiêu chuẩn số một của giảng
viên. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một nửa yêu cầu của hoạt động chuyên môn đối
với giảng viên các trường Chính trị. Thực tế, hoạt động NCKH luôn được các
trường đề cao, chú trọng, xác định là một nhiệm vụ bắt buộc, thường xuyên
và tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá năng
lực toàn diện, việc hoàn thành nhiệm vụ của giảng viên. Tuy vậy, trong thời
gian qua, kết quả hoạt động NCKH của giảng viên còn khá khiêm tốn, thậm chí còn
nhiều hạn chế, bất cập; chưa được giảng viên quan tâm đúng mức và chưa ngang
tầm với nhiệm vụ chuyên môn; giảng viên chưa nhiệt huyết, mặn mà đối với các
hoạt động NCKH. Do vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động NCKH cần chú trọng
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ cơ bản: Đào tạo và NCKH, gắn kết quả NCKH của
giảng viên với chất lượng đào tạo. Do vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động
NCKH của giảng viên, các nhà trường cần kết hợp và triển khai đồng bộ một số
giải pháp.
Một là, cần xác định
hoạt động NCKH của giảng viên là biện pháp quan trọng hàng đầu để nâng cao chất
lượng đào tạo của trường; nâng nhận thức về vị trí, tầm quan trọng công tác
NCKH của giảng viên đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu
chuẩn hoá cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, tiếp tục đổi
mới nội dung, phương pháp nghiên cứu; tạo điều kiện cho giảng viên phát triển
khả năng tư duy độc lập hình thành các kỹ năng tự học, tự nghiên cứu. Giúp đỡ
cho các giảng viên trẻ tham gia đề tài với những giảng viên có kinh nghiệm; các
khoa cần phối hợp nghiên cứu các công trình, vấn đề liên quan. Chú trọng gắn
kết quả thực hiện nhiệm vụ NCKH của giảng viên, cán bộ, nhân viên với công tác
bố trí, sử dụng cán bộ như ưu tiên trong quy hoạch, bổ nhiệm đối với giảng
viên, cán bộ nhân viên có thành tích xuất sắc trong NCKH; tiêu chuẩn, điều kiện
bổ nhiệm lại cần phải có tiêu chí về đề tài NCKH.
Ba là, yêu cầu phải
đảm bảo xác định đúng mục tiêu, đối tượng nghiên cứu phù hợp với nội dung
chương trình đào tạo. Kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn giúp giảng
viên củng cố kiến thức của từng lĩnh vực cụ thể; phạm vi nghiên cứu không quá
rộng. Cần đổi mới quản lý hoạt động khoa học, xây dựng kế hoạch NCKH phù hợp
nhiệm vụ từng năm học; nâng kinh phí cho các đề tài NCKH của giảng viên. Ngoài
nguồn kinh phí sự nghiệp khoa học, nhà trường chủ động hợp tác với các đơn vị,
địa phương liên kết, thực hiện xã hội hoá thu hút kinh phí tài trợ cho hoạt
động NCKH của giảng viên, nâng tính ứng dụng các đề tài.
Bốn là, Nhà trường
dành kinh phí đầu tư xây dựng phát triển thông tin thư viện, mở rộng cổng
Internet để truy cập thông tin tạo điều kiện để giảng viên có thể tiếp cận các
đề tài nghiên cứu, lựa chọn và tham gia nghiên cứu. Hoàn thiện quy trình tuyển
chọn tổ chức và cá nhân thực hiện đề tài khoa học các cấp trên cơ sở cạnh tranh
và công bằng nhằm thu hút các giảng viên có khả năng, có tâm huyết với các hoạt
động NCKH.
Năm là, tổ chức thường
xuyên các hoạt động khoa học (nhất là các hội thảo, toạ đàm khoa học), tổ chức
các hoạt động bồi dưỡng chuyên đề; hướng dẫn cụ thể các định hướng nghiên cứu
(nghiên cứu quản lý, giảng dạy, đào tạo…) giảng viên ở các khoa, phòng cần tăng
cường phối hợp nghiên cứu. Chú trọng gắn kết quả thực hiện nhiệm vụ chung với
kết quả NCKH của giảng viên, cán bộ nhân
viên. Thực hiện chế độ khen thưởng thành tích nghiên cứu gắn chặt với tiêu
chuẩn bình xét thi đua hàng năm; với một số bộ phận ít giờ giảng không đủ định
mức nên quy đổi số giờ NCKH vượt định mức của giảng viên thành giờ chuẩn giảng
dạy để tạo điều kiện cho giảng viên hoàn thành định mức giảng dạy.
Hoạt động NCKH của giảng viên là rất quan trọng trong việc biến quá trình
đào tạo thành quá trình tự đào tạo, là cơ sở cần thiết để tiến hành đổi mới nội
dung, phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của xã hội, hướng đến đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân
lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao./.
HỘI THẢO KHOA
HỌC - MỘT HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẦN THIẾT Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG
CHINH
ThS. Cao Thị Thu Hiền
Phó
Trưởng phòng Nghiên cứu KH - TT - TL
Hội thảo khoa học là hội nghị thảo luận về các vấn đề mang tính khách quan,
khoa học để đi đến thống nhất. Đây là hoạt động cần thiết đối với các chủ thể
khi muốn làm rõ vấn đề khoa học. Hội thảo khoa học trong các trường, viện
nghiên cứu nói chung, trường chính trị cấp tỉnh nói riêng là hoạt động thường
xuyên có ý nghĩa quan trọng.
Trường Chính trị cấp tỉnh là trường có chức năng đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị - hành chính cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và dự nguồn trong hệ thống
chính trị ở địa phương. Hội thảo khoa học trong trường giúp cho ban lãnh đạo,
cán bộ, giảng viên và học viên có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn để lãnh đạo
và tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ,
công chức cho tỉnh.
Theo Quy chế hoạt động khoa học của các trường Chính trị tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương ban hành kèm theo Quyết định số 268/QĐ-HVCT-HCQG ngày
03/2/2010 của Giám đốc Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị quốc gia hồ
Chí Minh) quy định hoạt động khoa học tại các trường chính trị cấp tỉnh gồm:
Thực hiện các đề tài, dự án; viết giáo trình, cụ thể hóa chương trình; viết bài
đăng báo, tạp chí; hội thảo khoa học...
Hội thảo khoa học là hoạt động nghiên cứu khoa học cần thiết ở các trường
chính trị cấp tỉnh nói chung, ở Trường Chính trị Trường Chinh nói riêng. Thực
hiện chủ trương phát triển khoa học và đẩy mạnh ứng dụng sản phẩm nghiên cứu
khoa học trên các lĩnh vực; được sự quan tâm tạo điều kiện của lãnh đạo nhà
trường, hội thảo khoa học ở Trường Chính trị Trường Chinh những năm gần đây
được nâng lên về số lượng và chất lượng. Nội dung hội thảo khoa học cấp trường,
cấp khoa gắn liền với chuyên môn và chức năng nhiệm vụ cơ quan, đơn vị trong
quá trình đào tạo, bồi dưỡng như: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng
giảng dạy lý luận chính trị - hành chính tại Trường Chính trị Trường Chinh”
(Hội thảo thuộc đề tài cấp tỉnh); Hội thảo nhân kỷ niệm “80 năm ngày thành lập
Đảng Cộng sản việt Nam”; Hội thảo “Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCNVN - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” nhân kỷ niệm 70 năm ngày thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam); Hội thảo
“Công tác Dân vận của tổ chức cơ sở Đảng trong tình hình hiện nay” phục vụ
chuyên môn giảng dạy của khoa Dân vận; Hội thảo “Nâng cao chất lượng công tác
chuyên môn của phòng Đào tạo”; Hội thảo “Vai trò quần chúng nhân dân trong thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tỉnh Nam Định”; Hội thảo “Những điểm mới của Luật
Hộ tịch 2014; Luật Căn cước công dân 2014 và yêu cầu đặt ra đối với nhiệm vụ
của công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã” phục vụ đề tài cấp trường. Các hội thảo
đã làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng
giảng dạy, công tác trong trường. Qua tổ chức hội thảo, Đảng ủy, Ban Giám đốc,
Hội đồng khoa học nhà trường đã lãnh đạo, chỉ đạo công tác chuyên môn của các
đơn vị khoa, phòng một cách sâu sát; các đơn vị có điều kiện sinh hoạt chuyên
môn; cán bộ, giảng viên có sân chơi trong nghiên cứu khoa học để đào sâu chuyên
môn, nghiệp vụ.
Hội thảo khoa học ở Trường Chính trị Trường Chinh góp phần phát huy tính
sáng tạo, dân chủ trong thực hiện nhiệm vụ ở cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, thời
gian qua, hội thảo trong trường vẫn chưa đáp ứng yêu cầu hiện nay:
Thứ nhất: Vị trí, vai
trò của hội thảo khoa học chưa được đánh giá đúng mức nên số lượng và chất
lượng còn khiêm tốn.
Về số lượng hội thảo: Tuy có tăng so với những năm trước nhưng cũng chưa
đáng kể. Thực tế giảng viên chủ yếu tập trung thời gian cho giảng dạy, ít có
thời gian cho nghiên cứu khoa học cũng như đầu tư cho hội thảo. Chất lượng hội
thảo cũng chưa thực sự đồng đều. Có hội thảo ở đơn vị, các tham luận hết sức
công phu, tâm huyết thể hiện chất trí tuệ; có hội thảo tổ chức với mục đích để
tính công trình khoa học cho giảng viên đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu
khoa học trong năm, việc đầu tư thời gian, công sức cho tham luận chưa nhiều.
Thứ hai: Hội thảo ở
trường hiện nay chủ yếu là các ý kiến thảo luận thuận chiều, chưa có nhiều ý
kiến phản biện trái chiều để làm rõ vấn đề khoa học cần bàn, điều đó chưa tạo
được không khí tranh luận theo đúng nghĩa là hội thảo khoa học.
Thứ ba: Các quy định
pháp lý và cơ chế thực hiện còn thiếu nên trong tổ chức, thực hiện hội thảo còn
chưa đáp ứng yêu cầu hiện nay. Cụ thể:
Trong hội thảo, có nội dung bài tham luận chưa thống nhất với chủ đề hội
thảo. Chủ đề đặt ra giải quyết vấn đề rất rộng nhưng nội dung các tham luận lại
chỉ giải quyết được vấn đề hẹp; hoặc có hội thảo, chủ đề đưa ra trong phạm vi
hẹp phù hợp với chuyên môn đơn vị nhưng các tham luận lại bàn về các vấn đề xa
hơn, lệch trọng tâm nên không làm rõ được chủ đề hội thảo. Đây là do cách phối
hợp trong quá trình thực hiện chưa đồng bộ nên vẫn còn sự không thống nhất giữa
nội dung và chủ đề hội thảo.
Mặt khác thành phần dự hội thảo trong trường hiện nay chủ yếu mới dừng lại
trong phạm vi nhà trường, chưa có sự tham gia rộng rãi của các đối tượng học
viên và tổ chức khác ngoài trường. Mặt khác, sản phẩm sau hội thảo lưu thư viện
cũng chỉ để tham khảo trong đội ngũ cán bộ, giảng viên nhà trường, vì vậy việc
tuyên truyền nội dung khoa học liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng cũng chưa được
rộng rãi đến đối tượng người học.
Từ thực trạng trên, xuất phát từ thực tiễn công tác tại trường, tôi xin đề
xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng hội thảo trong trường hiện nay:
Thứ nhất: Nâng cao nhận
thức về vị trí và vai trò của hội thảo trong trường.
Về phía Đảng ủy, Ban Giám đốc: Trong báo cáo sơ kết, tổng kết các hội nghị
liên quan đến công tác giảng dạy hàng năm cần khẳng định rõ hơn về vị trí của
công tác nghiên cứu khoa học (trong đó có hội thảo) đối với công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, từ đó toàn thể cán bộ, giảng viên nhà trường ý thức rõ hơn
trách nhiệm của mình trong nghiên cứu khoa học.
Thứ hai: Hoàn thiện quy
định, cơ chế tổ chức thực hiện hội thảo.
Để đảm bảo số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu hiện nay, hàng năm Ban
Giám đốc giao nhiệm vụ cho các đơn vị đăng ký ít nhất 2 hội thảo/năm từ tháng
12 năm trước, trong đó cần cụ thể chủ đề, nội dung các tham luận và dự kiến
thời gian thực hiện. Từ đó phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu có
cơ sở tham mưu cho Ban Giám đốc kế hoạch nghiên cứu khoa học năm sau.
Sau khi có kế hoạch cụ thể, các đơn vị có sự phối hợp trong thực hiện nội
dung, thủ tục hội thảo. Với hội thảo khoa học cấp trường, các đơn vị, cá nhân
cần có sự phối hợp chặt chẽ trong thực hiện nhiệm vụ chính trị để đạt kết quả
cao nhất. Với hội thảo cấp khoa, đơn vị khoa, phòng cần mời các đơn vị khác
viết bài để có sự giao lưu, tạo tiếng nói chung trong vấn đề khoa học, tránh
gói gọn các bài viết trong một đơn vị.
Để đảm bảo chất lượng bài tham luận tại hội thảo, bản thân từng cá nhân cần
quan tâm đầu tư thời gian và trí tuệ đảm bảo bài viết khoa học, thực tiễn,
trúng vấn đề đặt ra.
Thứ ba: Đổi mới phương
thức tổ chức hội thảo
Để phục vụ công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, hội thảo cần mở rộng quy mô, mở rộng các đối
tượng viết bài ngoài trường, mở rộng thành phần tham dự hội thảo. Đặc biệt với
học viên các lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính, nhà trường nên động
viên các lớp tổ chức hội thảo để giao lưu nghiên cứu khoa học giữa các lớp,
giữa cán bộ, giảng viên và học viên… điều đó góp phần bồi dưỡng thêm kỹ năng
nghiên cứu khoa học trong học tập lý luận chính trị - hành chính tại trường,
gắn lý luận và thực tiễn, phù hợp tình hình thực tiễn hiện nay.
Hội thảo khoa học ở trường Chính trị là cần thiết góp phần nâng cao chất
lượng giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho tỉnh đối với Trường
Chính trị Trường Chinh. Hội thảo khoa học có thành công hay không phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Điều đó đòi hỏi sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Ban
Giám đốc, sự phối hợp đồng bộ của các bộ phận, sự tích cực từ đội ngũ cán bộ,
giảng viên nhà trường./.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH - MỘT SỐ KINH NGHIỆM
ThS. Cao Thị Hà
Phó Trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật
Nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ quan trọng của giảng viên các trường
Chính trị tỉnh, thành phố, đòi hỏi tính mới, tính sáng tạo, tính khoa học, tính
ứng dụng. Từ quá trình nghiên cứu khoa học của bản thân, xin chia sẻ một số
kinh nghiệm xoay quanh hoạt động nghiên cứu này.
1. Nội dung nghiên cứu khoa học của giảng
viên trường Chính trị
Ngày 27/4/2014, Giám đốc Trường Chính trị Trường Chinh đã
ra Quyết định số 33/QĐ-TCTTC về việc ban hành Quy chế hoạt động khoa học của
Trường Chính trị Trường Chinh. Quy chế đã chỉ rõ những hoạt động khoa học mà giảng
viên nhà trường có thể tham gia.
- Các dự án cấp Nhà nước, cấp tỉnh;
- Viết đề tài khoa học (đề tài khoa học cá nhân, đề tài khoa
học cấp khoa, cấp trường, cấp tỉnh);
- Nghiên cứu cụ thể hóa chương trình đào tạo, bồi dưỡng của
Nhà trường;
- Viết giáo trình thuộc phần vấn đề địa phương và biên soạn
tài liệu giảng dạy các chương trình bồi dưỡng theo phân cấp;
- Viết lịch sử nhà trường, lịch sử địa phương;
- Viết bài tham gia hội thảo khoa học cấp khoa, cấp trường,
cấp tỉnh; các bài phản biện các đề tài khoa học;
- Viết sáng kiến kinh nghiệm;
- Viết bài cho báo Trung ương, địa phương, nội san, trang Website;
- Nghiên cứu khảo sát thực tế theo kế hoạch phục vụ cho hoạt động giảng
dạy, học tập, nghiên cứu đề tài, dự án khoa học và có viết thu hoạch;
- Xây dựng các đề án của Nhà trường.
Hàng năm, các giảng viên sẽ lựa chọn các hoạt động nghiên cứu của mình.
2. Một số kinh nghiệm nghiên cứu khoa
học
Trước hết, cần nhận thức đúng ý
nghĩa của nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Xác định nội
dung nghiên cứu có mối liên hệ biện chứng với các nhiệm vụ khác của người giảng
viên. Nó hỗ trợ cho nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu thực tế, học tập nâng cao
trình độ... Đây là việc làm thường xuyên. Sản phẩm nghiên cứu có thể là một bài
báo, một tập bài giảng, hay một công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau.
Tất cả đều rất đáng trân trọng. Vì vậy, cần có ý thức trách nhiệm cao, thái độ
làm việc nghiêm túc, bảo đảm giá trị sau khi đã được nghiệm thu.
Xây dựng niềm đam mê nghiên cứu khoa học, hoạt
động nghiên cứu khoa học được xác định là nhiệm vụ thường xuyên, không hình
thức. Nghiên cứu khoa học, không dễ nên cần thời gian. Nghiên cứu khoa học
không mang lại nhiều lợi ích vật chất. Vì đam mê, vì xác định lợi ích ẩn chứa
trong hàm lượng tri thức mỗi sản phẩm nghiên cứu sẽ giúp vượt qua những cân
nhắc giữa được và mất.
Lựa chọn chủ đề nghiên cứu, mục
tiêu các hoạt động nghiên cứu trong
Trường Chính trị tỉnh luôn phải gắn liền với nội dung, chương trình
giảng dạy. Điều này đòi hỏi người giảng viên phải nắm chắc chức năng, nhiệm vụ
của Nhà trường, nắm chắc nội dung, chương trình giảng dạy. Chủ đề nghiên cứu có
thể được định hướng trong kế hoạch của Nhà trường hoặc do chính giảng viên phát
hiện vấn đề. Chủ đề nghiên cứu đều nằm trong các nội dung, chương trình gắn với
nhiệm vụ và đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của Nhà trường.
Thu thập và nghiên cứu tài liệu
là một việc làm thường xuyên, đây là công việc cần thiết đối với bất
kỳ mọi hoạt động nghiên cứu. Các nguồn tài liệu chính là nền tảng cho hoạt động
nghiên cứu. Nó giúp gợi ý xây dựng các ý tưởng nghiên cứu, chọn chủ đề nghiên
cứu, tìm cơ sở chứng minh. Việc nghiên cứu khoa học đòi hỏi có kiến thức rộng,
sâu về vấn đề nghiên cứu, có phương pháp nghiên cứu phù hợp, có luận cứ chặt
chẽ, không trùng lặp với các công trình đã nghiên cứu. Tất cả những điều đó có
được khi biết thu thập và nghiên cứu tài liệu. Tài liệu có thể là các tình
huống quản lý, pháp lý… xảy ra trên thực tế. Đó có thể là nguồn tài liệu từ
giáo trình, sách tham khảo, thông tin trong Niên giám thống kê, trong báo cáo
của cơ quan hành chính nhà nước, trong tập nội san, trong kỷ yếu hội thảo khoa
học, trong luận án, luận văn đã nghiệm thu, trong tin bài đăng trên báo hình,
báo viết, báo mạng… Tạo khả năng quan sát và tạo văn hóa đọc là một việc làm
cần thiết cho người giảng viên muốn nghiên cứu khoa học.
Xác định rõ bố cục của mỗi sản
phẩm nghiên cứu khoa học, mỗi hoạt động khoa học có sản phẩm
riêng với tiêu chí đánh giá khác nhau, với hàm lượng tri thức khác nhau. Nhưng
dù là bất kỳ loại sản phẩm nghiên cứu nào cũng cần một bố cục rõ ràng, mạch lạc
với phần đặt vấn đề, nêu tính cấp thiết về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn; nêu
rõ và phân tích nội dung vấn đề và không thể thiếu phần giải pháp, kiến nghị,
đề xuất. Phần nội dung với các luận chứng, luận cứ, luận điểm được sắp xếp một
cách lôgíc. Việc trình bày phải rõ ràng để ý tưởng nghiên cứu có thể đến với
người đọc một cách nhanh chóng, dễ dàng nhất.
Mỗi sản phẩm khoa học được nghiệm
thu cần tự rút kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học là một quá trình.
Nó cần có thời gian, cần tích lũy kinh nghiệm về tri thức, về phương pháp
nghiên cứu... Kinh nghiệm được đúc kết qua những khó khăn, những lỗi gặp phải
giúp các lần nghiên cứu tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.
Quá trình nghiên cứu, rất cần
phối hợp, cần có hỗ trợ của nhiều chủ thể trong nhà trường, đó là
sự định hướng, sự chỉ đạo sát sao, sự tạo điều kiện về mọi mặt của lãnh đạo nhà
trường. Từ lựa chọn đề tài, triển khai nghiên cứu và nghiệm thu, rút kinh
nghiệm luôn cần các ý kiến xác đáng, góp ý trách nhiệm của Hội đồng khoa học
nhà trường. Phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu là phòng tham mưu
cho lãnh đạo nhà trường trong xây dựng kế hoạch nghiên cứu, trong tổ chức
nghiệm thu, đánh giá kết quả nghiên cứu. Kế hoạch tốt, khả thi; việc tổ chức
bài bản, chuyên nghiệp, giúp quá trình nghiên cứu không bị ảnh hưởng bởi các
thủ tục hành chính bắt buộc. Phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị giúp hoàn
thiện các thủ tục thanh toán đối với những đề tài được hỗ trợ kinh phí.
Con đường đến với khoa học chân chính rất dài và vô cùng chông gai. Tôi và
bạn - giảng viên Trường Chính trị Trường Chinh muốn được bắt đầu và tiếp tục
đặt chân trên con đường ấy. Và như vậy, hàng năm, nhiều sản phẩm nghiên cứu
khoa học nghiêm túc sẽ ra đời tại ngôi trường thân yêu này./.
MỘT SỐ SUY
NGHĨ VỀ VIỆC TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU THỰC TẾ
VÀ CÁC HOẠT
ĐỘNG NGOẠI KHÓA TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
Vũ Mạnh Hưng
Lớp
Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính K117
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính K117 là lớp học hệ chính quy
đầu tiên của Trường Chính trị Trường Chinh thực hiện Chương trình học tập Trung
cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (chỉnh sửa, bổ sung) ban hành theo Quyết
định số 1479/QĐ-HVCTQG ngày 21/4/2014 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh. Xuyên suốt quá trình đào tạo, nguyên tắc “lý luận liên hệ với thực
tiễn”, “học đi đôi với hành” luôn được nhà trường quan tâm thực hiện. Nguyên
tắc đó không chỉ được nghiêm túc triển khai trong từng bài giảng, giờ học mà
còn được nhà trường chỉ đạo thực hiện thông qua các hoạt động nghiên cứu thực
tế (các hoạt động ngoại khoá, các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao…).
Là lớp đào tạo chính quy tại trường, ngay từ đầu khóa học, tập thể lớp
Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính K117 đã xác định: để hoàn thành tốt
chương trình học trước hết phải xây dựng tập thể lớp đoàn kết, tạo không khí
sôi nổi, vui tươi để anh chị em học viên tích cực tham gia các phong trào học
tập, rèn luyện, chủ động trao đổi, cùng nhau nghiên cứu, thảo luận trên lớp,
đồng thời vun đắp tình cảm, mối quan hệ tốt đẹp trong và sau khóa học.
Xác định nghiên cứu, học tập thực tế là một nội dung bắt buộc trong chương
trình học tập toàn khóa. Với tinh thần chủ động, tích cực, chỉ hơn hai tháng
sau lễ khai giảng, tháng 6/2015, Ban cán sự lớp đã bàn bạc, xây dựng kế hoạch
sơ bộ tổ chức học tập thực tế. Sau khi Ban Giám đốc đồng ý chủ trương, lớp đã
xây dựng kế hoạch chi tiết, phân công các tiểu ban tích cực tiến hành công tác
chuẩn bị. Trong 2 ngày 07-08/10/2015, lớp đã tổ chức đợt học tập thực tế gồm
các hoạt động: Dâng hương, tìm hiểu thân thế, sự nghiệp Cố Tổng Bí thư Trường
Chinh tại xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường; nghiên cứu, trao đổi tình hình phát
triển kinh tế - xã hội tại Thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu.
Dâng hương và tìm hiểu về thân thế sự nghiệp Cố Tổng Bí thư Trường Chinh,
người con ưu tú của quê hương Nam Định, lãnh tụ kiệt xuất của Đảng, mà Trường
Chính trị tỉnh Nam Định được vinh dự mang tên, qua đó tăng cường giáo dục chính
trị tư tưởng cho học viên, đồng thời giúp học viên được hiểu sâu sắc thêm về
lịch sử vẻ vang, quá trình hoạt động gian khổ, những cống hiến hy sinh to lớn
của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như các đồng chí lãnh tụ của Đảng.
Trao đổi và tìm hiểu thực tế tình hình phát triển kinh tế - xã hội tại Thị
trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu - huyện đầu tiên trong cả nước được công nhận
đạt chuẩn Nông thôn mới, giúp học viên có dịp kiểm nghiệm để hiểu sâu sắc, đầy
đủ hơn kiến thức đã được học trên lớp ở nhiều lĩnh vực, học tập nhiều kinh
nghiệm, kỹ năng quý báu, hữu ích trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý,
điều hành của Đảng ủy, chính quyền, các đoàn thể ở cơ sở. Đây cũng là cơ hội
tốt để học viên của lớp nắm bắt tình hình thực tế để tham mưu cho lãnh đạo cơ
quan thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị ở đơn vị công tác.
Cùng với nội dung nghiên cứu thực tế, tập thể lớp đã triển khai nhiều hoạt
động ngoại khoá.
Nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
(20/10/1930 - 20/10/2015), kết hợp với đợt nghiên cứu thực tế, lớp đã tổ chức
Gala Dinner với sự tham gia của đại diện lãnh đạo nhà trường, các thầy cô giáo;
lãnh đạo Đảng ủy, UBND Thị trấn Thịnh Long. Gala Dinner với các nội dung: Chào
mừng thành công của đợt học tập thực tế; chúc mừng các cô giáo, chị em học viên
nhân ngày Phụ nữ Việt Nam. Chương trình văn nghệ, ảo thuật, trò chơi, đêm lửa
trại diễn ra trong không khí sôi nổi, vui vẻ đã thực sự đem lại cảm xúc đặc
biệt cho mỗi học viên. Rất nhiều chia sẻ của học viên trên trang facebook của
lớp: “Chỉ có đi thực tế là học hay nhất”, “Cảm ơn những con người đã làm nên
một buổi tối tuyệt vời”, “Sống lại một thời tuổi trẻ, cháy mãi”, “Ngọn lửa này
sẽ cháy mãi trong tim học viên K117”... đã khẳng định thành công của đợt học
tập.
Bên cạnh việc tích cực tham gia các hoạt động do nhà trường tổ chức, lớp
K117 thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ, thể thao. Các
hoạt động đều được chuẩn bị chu đáo, có chương trình, kịch bản chi tiết, thông
báo rộng rãi đến toàn thể học viên. Nhờ vậy luôn nhận được sự đồng tình thống
nhất cao và tham gia nhiệt tình của đông đảo học viên.
Thông qua học tập thực tế và các hoạt động ngoại khoá đã làm cho 95 học
viên đến từ 40 đơn vị với nhiều độ tuổi khác nhau (với độ chênh lệch cao nhất
đến 38 tuổi) trở nên gắn bó, thân thiết. Mỗi học viên đều tìm thấy niềm vui từ
lớp học, đồng thời tạo sự phấn khởi, tự hào và thúc đẩy các học viên chủ động,
tích cực tham gia các hoạt động để xây dựng và gìn giữ “tinh thần K117”. Tinh
thần đó có tác động tích cực đến phong trào học tập của lớp. Các giờ thảo luận
trở nên sôi nổi với nhiều ý kiến tham gia, các buổi học trở nên hấp dẫn hơn,
tạo cho học viên sự hứng khởi thực sự trong học tập.
Trong quá trình triển khai các hoạt động, lớp Trung cấp Lý luận Chính trị -
Hành chính K117 đã luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo từ Ban Giám đốc, giáo
viên chủ nhiệm, các thầy, cô giáo, các khoa, phòng của Nhà trường, sự ủng hộ và
tham gia nhiệt tình của đông đảo học viên, tinh thần trách nhiệm của Ban cán sự
lớp. Đây là những yếu tố quyết định đến thành công của các hoạt động ngoại
khóa.
Từ thực tế hoạt động của K117 có thể thấy rằng: Trong các khóa học cần quan
tâm tổ chức các hoạt động nghiên cứu thực tế, ngoại khóa một cách thường xuyên
hơn với hình thức và nội dung phong phú, đa dạng, thiết thực. Tổ chức thành
công các hoạt động ngoại khóa có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển phong
trào, nâng cao chất lượng các khóa học trong nhà trường./.
ĐẨY MẠNH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN
TRONG CÔNG TÁC LỮU TRỮ HỖ SƠ HỌC
VIÊN Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH
CN. Vũ Đức Thắng
Phó Trưởng
phòng Đào tạo
Trong thời đại ngày nay, công nghệ thông tin đã ở
một bước phát triển cao là số hóa tất cả các dữ liệu thông tin, luân chuyển
mạnh mẽ và có sự kết nối toàn cầu đã cho phép chúng ta dễ dàng thu thập, chia
sẻ thông tin, nâng cao hiệu quả công tác. Điều này đã tác động mạnh đến nguồn
nhân lực hành chính văn phòng nói chung và văn thư, lưu trữ nói riêng.
Để nâng cao chất lượng công tác lưu trữ hồ sơ,
trong nhưng năm qua phòng Đào tạo Trường Chính trị Trường Chinh đã tích cực
triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác lưu trữ hồ sơ của các lớp
mở tại trường, trong đó có lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong
quản lý và lưu trữ.
Quản lý hồ sơ bao gồm việc sắp xếp, thiết kế và xem xét lại các văn bản, hồ
sơ học viên trong nhà trường. Nó liên quan đến việc phối hợp các nhiệm vụ, quản
lý, bảo quản, huỷ hồ sơ trong hoạt động của một tổ chức.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào lưu trữ hồ sơ học viên sẽ giảm về nguồn
lực con người thực thi công việc của phòng, giảm chi phí mua sắm thiết bị nhưng
lại đảm bảo cung cấp thông tin hợp thời, xử lý công việc nhanh gọn, hiệu quả,
có thể dễ dàng tìm hồ sơ, thuận lợi cho việc chuyển giao thông tin hồ sơ khi
cần thiết....
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng uỷ, Ban
giám đốc, phòng Đào tạo đã tham mưu tích
cực và thực hiện có hiệu quả công tác lưu trữ hồ sơ học viên. Vì vậy, công tác
khai thác và sử dụng hồ sơ, tài liệu luôn đảm bảo kịp thời, đúng quy trình, quy
định.
Các công việc liên
quan đến thông tin, biểu mẫu được thống nhất sử dụng (theo mẫu chung) công việc
cần số liệu nhanh và chính xác khi làm việc với các bộ phận của Phòng được thực
hiện qua Email.
Trong công tác quản lí hồ sơ của
học viên được lưu trữ đảm bảo theo từng năm học. Công tác thông tin báo cáo của
giáo viên với lãnh đạo phụ trách, giữa nhà trường và phòng Đào tạo, giữa phòng
Đào tạo và các khoa chuyên môn được kịp thời và chính xác hơn.
Hiện tại, nhà trường đã đầu tư trang thiết bị cho phòng
bước đầu phục vụ tốt cho công tác giảng dạy, quản lý và lưu trữ. Số máy tính phục
vụ cho phòng hiện nay là 06 máy (trong đó có 01 máy scan), tủ hồ sơ lưu trữ và
các thiết bị chuyên dụng khác. Việc quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị như:
Giao trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên trong phòng, quan tâm bồi dưỡng kiến
thức cho người sử dụng với phương châm “giữ tốt - dùng bền” thường xuyên bảo dưỡng,
nhằm khai thác tối đa, có hiệu quả, trang thiết bị được cung cấp.
Để quản lý tốt hồ
sơ của học viên các lớp, phòng Đào tạo đã ứng dụng công nghệ thông tin lưu trữ
tất cả những thông tin liên quan đến học viên như: Sơ yếu lý lịch, giấy khám sức
khoẻ, trình độ chuyên môn, quyết định cử đi học..... Đồng thời, cũng đang ứng dụng
các mẫu biểu của đơn vị để quản lí học viên các lớp. Nhờ cách lưu trữ khoa học
đó mà lãnh đạo nhà trường, các đồng chí cán bộ giảng viên, nhân viên phòng Đào
tạo, các giảng viên các khoa trong nhà trường, các đơn vị phối hợp mở lớp, các
giáo viên đồng chủ nhiệm và học viên, khi có nhu cầu, có thể tìm kiếm thông tin
một cách dễ dàng, chính xác, thuận tiện.
Phòng Đào tạo đã chủ động lên kế hoạch để lưu trữ hồ sơ học
viên một cách khoa học, dễ nhìn, dễ sử dụng và dễ tìm kiếm như:
+ Lên danh sách các lớp.
+ Thống kê số hồ sơ chuyển đi, chuyển đến.
+ Thống kê học viên với nhiều thành phần khác nhau: Giới
tính, phường xã, trình độ chuyên môn, kết quả học tập,…
+ Quản lý điểm, xếp loại về học tập và số hiệu bằng tốt
nghiệp.
Các hồ sơ sổ sách chuyên môn, các loại biểu bảng liên
quan công tác chuyên môn của Phòng hiện nay được hệ thống hóa theo từng danh mục
tài liệu và lưu trữ đảm bảo theo từng năm học.
Bên cạnh những kết quả đạt được,
công tác lưu trữ hồ sơ, tài liệu chưa đồng bộ.
Việc quản
lý, lưu trữ hồ sơ tại phòng những năm trước đây thông qua việc xây dựng danh
mục hồ sơ chưa thể hiện đầy đủ khung, đề mục, tiêu đề hồ sơ theo đúng quy định.
* Nguyên nhân của những hạn chế:
Cán bộ lưu trữ là
cán bộ kiêm nhiệm chưa được đào tạo đúng chuyên ngành, thiếu kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ nên chưa thể theo kịp những yêu cầu mà công tác lưu trữ hiện
hành đặt ra.
Lưu trữ của phòng Đào tạo trước đây chưa có kho lưu trữ chuyên dụng, chưa
được trang bị giá, kệ, cặp hộp theo đúng quy định. Bên cạnh đó, cán bộ lưu trữ
trong phòng luôn có sự thay đổi về nhân sự. Đây là những nguyên nhân khách quan
nhưng phần nào cũng gây ảnh hưởng đến công việc lữu trữ của Phòng.
Để làm tốt công tác lưu trữ phòng Đào tạo xin đề
xuất một số giải pháp sau:
- Cán bộ được phân làm công tác lưu trữ cần phải
tích cực tự giác học tập, nghiên cứu, tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lý
văn bản, hồ sơ của học viên; sử dụng hiệu quả văn bản điện tử trên trang
website, trong hộp thư điện tử.
- Nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc lập hồ
sơ, lưu trữ hồ sơ.
- Tiếp tục đưa công tác lập hồ sơ, lưu trữ hồ sơ
của các lớp đi vào nề nếp
- Thường xuyên nghiên cứu hệ thống văn bản quy
phạm, hướng dẫn nghiệp vụ lập hồ sơ một cách đồng bộ, sát với thực tế, mang lại
hiệu quả ứng dụng cao.
Việc ứng dụng CNTT vào công tác lưu trữ, ban đầu là một bài toán khó, nhưng
qua một thời gian không dài, với tinh thần chủ động, không ngừng đổi mới và
sáng tạo của phòng Đào tạo, đã thực sự mang lại hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng trong công tác đào tạo bồi dưỡng
của Nhà trường./.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỐI HỢP TUYỂN SINH
Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
TRƯỜNG CHINH
ThS. Trần Thùy Dương
Phó Trưởng phòng Đào tạo
Tuyển sinh là một nội dung quan trọng trong quản lý đào tạo,
bồi dưỡng của Nhà trường. Đây là công việc tiếp theo của quá trình xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng. Việc nghiên cứu để có kiến nghị đề xuất nhằm thực hiện
tốt công tác phối hợp tuyển sinh là rất cần thiết ở Trường Chính trị Trường
Chinh hiện nay.
Như chúng ta đã
biết, phối hợp tuyển sinh là quá trình thống nhất kế hoạch, cách thức triển
khai hoạt động với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Chủ thể phối hợp tuyển
sinh tuỳ theo từng loại hình đào tạo. Đó
là các cơ quan quản lý, chỉ đạo như Ban Tổ chức Tỉnh uỷ, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị khu vực I, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Nội vụ,
Sở Giáo dục và Đào tạo, Huyện uỷ, Thành ủy và các đơn vị trực tiếp tổ chức lớp
học như trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thành phố và các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng khác....
Mục đích của việc phối hợp để bảo đảm tính chủ động trong
công tác tuyển sinh của Nhà trường. Việc phối hợp với các cơ quan tổ chức liên
quan và các cơ sở đào tạo để thống nhất về nhu cầu học tập cũng như đối tượng học
viên ở các loại hình đào tạo trong từng năm. Trên cơ sở đó, Nhà trường chủ động
xây dựng kế hoạch mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
Trong những năm qua, công tác phối hợp chiêu sinh của
Trường Chính trị Trường Chinh có những thuận lợi cơ bản sau: Nhà trường luôn
bám sát các văn bản về đào tạo, bồi dưỡng để thực hiện tốt công tác phối hợp
tuyển sinh theo chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu của tỉnh như: Quyết định số
184-QĐ/TW ngày ngày 03/9/2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chức năng,
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
Quyết định số 339-QĐ/TU ngày 15/01/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Nam Định phê
duyệt chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trường Chính trị tỉnh Nam Định,
Kế hoạch 66-KH/TU ngày 13/6/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp giai đoạn 2013 - 2015 và những năm tiếp
theo”.
Kết luận số 181-TB/TW ngày 03/9/2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Đổi
mới và nâng cao chất lượng hoạt động của trường chính trị cấp tỉnh và trung tâm
bồi dưỡng chính trị cấp huyện” đã khẳng định vị thế của Nhà trường: Là trường
duy nhất có chức năng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị.
Hơn nữa, đối tượng học viên có nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về
trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, để tiến tới chuẩn hoá đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức ngày càng tăng.
Bên cạnh những
thuận lợi trong công tác phối hợp tuyển sinh, nhà trường còn có những khó khăn,
bất cập:
Việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ và triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ giữa
các khối Đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội còn chồng chéo
về nội dung chương trình, về đối tượng.
Đối với các lớp hệ đào tạo trung cấp, nhà trường chủ động xây dựng kế hoạch
trình UBND tỉnh phê duyệt và phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Huyện uỷ, Thành
uỷ, trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thành phố và các cơ sở đào tạo tuyển
sinh, khai giảng, tổ chức giảng dạy quản lý, cấp phát bằng.
Đối với các lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính, ngạch
chuyên viên Sở Nội vụ trực tiếp chiêu sinh, Nhà trường làm nhiệm vụ quản lý, tổ
chức giảng dạy và phục vụ, cấp phát chứng chỉ.
Đối với các lớp bồi dưỡng khác do các sở, ban, ngành và các đoàn thể tự tổ
chức bồi dưỡng (Mặc dù theo Quyết định 184-QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng
và Quyết định số 339-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thì việc tổ chức bồi dưỡng
cho các đối tượng này thuộc chức năng, nhiệm vụ của Nhà trường).
Nhà trường bị động, phụ thuộc vào các đơn vị phối hợp tuyển sinh ở cả hai
loại hình đào tạo và bồi dưỡng. Mặc dù, trong những năm gần đây nhà trường đã
từng bước đổi mới công tác phối hợp tuyển sinh như đề nghị các đơn vị phối hợp
tuyển sinh đăng ký nhu cầu đào tạo từ tháng 11 năm trước, nhưng có đơn vị đăng
ký không sát với nhu cầu nên không thực hiện được kế hoạch tuyển sinh hoặc
ngược lại, nhu cầu tuyển sinh tăng cao so với kế hoạch.
Đối với các lớp bồi dưỡng, chỉ có các lớp bồi dưỡng đối tượng đảng và đảng
viên mới của 2 khối (Đảng uỷ khối các cơ quan và Đảng uỷ khối doanh nghiệp) là
tương đối ổn định hàng năm. Các lớp bồi dưỡng khác, kế hoạch chiêu sinh thường
muộn (tháng 3 hoặc tháng 4 mới có kế hoạch của năm). Việc triển khai xây dựng
kế hoạch và phối hợp mở lớp bồi dưỡng đối với nhà trường trong cùng một thời
điểm, gặp khó khăn trong việc bố trí giảng viên, cơ sở vật chất phục vụ lớp
học.
Căn cứ Quy chế đào tạo của Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, trên cơ sở Kế hoạch 66 ngày 13/6/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Nhà
trường đã phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Huyện uỷ, Thành uỷ, trung tâm bồi
dưỡng chính trị các huyện, thành phố và các cơ sở đào tạo tổ chức tuyển sinh
đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện, đúng quy trình, đúng đối tượng. Thống nhất và
chuẩn hoá các bước tuyển sinh, đa dạng các hình thức đào tạo, bồi dưỡng. Quan tâm tuyển sinh các lớp
đào tạo Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính; các lớp bồi dưỡng ngạch
chuyên viên chính, ngạch chuyên viên, chuyên viên cấp xã. Kết hợp tuyển sinh
các lớp tập trung, tại chức tại trường và các lớp tại chức tại trung tâm bồi
dưỡng chính trị các huyện và thành phố, các đơn vị phối hợp mở lớp. Kết hợp
tuyển sinh các lớp theo chỉ tiêu kế hoạch với tuyển sinh các lớp nguồn kinh phí
do học viên tự đóng góp. Thực hiện quy định xét tuyển chỉ cán bộ đương chức và
đúng độ tuổi học tại chức, cán bộ dự nguồn, trong quy hoạch và cán bộ trẻ học
tập trung. Đến tháng 11 năm 2015, Nhà trường phối hợp tuyển sinh 16 lớp Trung
cấp Lý luận Chính trị - Hành chính với 1.550 học viên, Trung cấp Pháp luật 01
lớp với 63 học viên. Phối hợp mở 02 lớp Bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính với
148 học viên, 04 lớp Bồi dưỡng ngạch chuyên viên với 365 học viên, 03 lớp Bồi
dưỡng ngạch chuyên viên cấp xã với 375 học viên, 03 lớp Bồi dưỡng đối tượng
đảng với 402 học viên, 03 lớp Đảng viên mới với 304 học viên. Liên kết mở 01
lớp Cao cấp Lý luận chính trị với 90 học viên. Đây là kết quả đạt được trong
phối hợp tuyển sinh của Nhà trường trong năm qua.
Tuy nhiên, công
tác phối hợp tuyển sinh có lúc, có nơi hiệu quả chưa cao, chưa nhịp nhàng.
Nhu cầu đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức hiện nay ở các huyện, thành phố, sở,
ban, ngành không đồng đều.
Từ thực trạng
công tác chiêu sinh mở lớp trong những năm qua, Trường Chính trị Trường Chinh đề
xuất một số kiến nghị sau:
Đối với Tỉnh ủy: Tiếp tục
chỉ đạo công tác phối hợp giữa Trường Chính trị Trường Chinh với các huyện uỷ,
thành uỷ, các sở, ban, ngành trực thuộc UBND tỉnh, Ban Tổ chức Tỉnh uỷ, Đảng uỷ
khối trong việc lập kế hoạch, xây dựng chỉ tiêu đào tạo cán bộ, công chức hàng
năm.
Đối với Sở Nội vụ:
Phối hợp cùng
nhà trường xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo từng năm để nhà trường chủ
động về kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho cả năm.
Có cơ chế phối hợp,
đưa các lớp bồi dưỡng, với nội dung chương trình nhà trường đảm nhận được về
nhà trường.
Đối với Trung tâm BDCT và cơ sở đào tạo:
Có kế hoạch từ đầu
năm dương lịch và gửi đăng ký các loại hình đào tạo, hình thức đào tạo về phòng
Đào tạo của Nhà trường.
Hoạt động tuyển
sinh bảo đảm đúng đối tượng, tiêu chuẩn, yêu cầu hồ sơ theo quy chế tuyển sinh
của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và yêu cầu của Tỉnh.
Đối với nhà trường:
Thông báo tuyển
sinh thông qua hệ thống báo, đài, hoặc trực tiếp gửi thông báo về từng cơ quan,
đơn vị.
Thường xuyên nắm
bắt tình hình nhu cầu đào tạo của các đơn vị, địa phương trong tỉnh.
Tiếp tục đa dạng
hoá loại hình và hình thức đào tạo trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của người học.
Trên đây là thực
trạng và kiến nghị với các chủ thể có liên quan trong công tác phối hợp tuyển
sinh của Trường Chính trị Trường Chinh. Tác giả với mong muốn cùng phối hợp tốt
hơn để việc tuyển sinh nhịp nhàng, hiệu quả cao trong thời gian tới./.
NÂNG CAO NĂNG LỰC VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ
CHỨC
CƠ SỞ ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG
HIỆN NAY
ThS. Hoàng Thị Châu Yên
Trưởng
phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng, coi tổ chức cơ sở Đảng là cấp tổ chức nền tảng, đơn vị chiến
đấu cơ bản, tế bào của Đảng. Chất lượng của các Đảng bộ, chi bộ cơ sở là nhân
tố cơ bản tạo nên chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở, Đảng
bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”.
Tổ chức cơ sở Đảng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây
dựng Đảng, trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Với tư cách là nền tảng của Đảng, tổ chức cơ sở Đảng có vị trí, vai trò rất
quan trọng đối với sự vững mạnh của Đảng. Đây là cấp tổ chức cuối cùng trong hệ
thống tổ chức bốn cấp của Đảng ta, là cấp tổ chức sâu rộng nhất, gắn với các
đơn vị cơ sở trên toàn lãnh thổ và các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội,
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng tới từng cơ sở, từng đảng viên và từng người dân.
Đây là nơi trực tiếp thực hiện chủ trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng,
đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm và góp phần quan trọng vào việc hình thành,
phát triển chủ trương, đường lối của Đảng thông qua những kinh nghiệm thực tiễn
phong phú của đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân. Đây cũng là nơi trực
tiếp tiến hành các hoạt động quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, như kết
nạp, quản lý, phân công nhiệm vụ, kiểm tra, đánh giá đảng viên; nơi đảng viên
thường xuyên thực hành các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt; nơi xuất phát đề cử
ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.
Tổ chức cơ sở Đảng còn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân, là mắt
khâu trọng yếu để duy trì mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; là tổ
chức gần dân nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng
của quần chúng nhân dân để phản ánh với Đảng. Có thể khẳng định rằng, dân tin
Đảng, theo Đảng hay không là nhờ vai trò rất quan trọng, trực tiếp của tổ chức
cơ sở Đảng, của cán bộ đảng viên tại cơ sở.
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở Đảng, việc nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng là việc làm
thường xuyên và là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của công tác xây dựng
Đảng.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ) là khả
năng quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; khả năng vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt các chủ trương, đường
lối, chính sách đó vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của đơn vị, cơ quan mình, để
đề ra các chủ trương, phương hướng và giải pháp thực hiện đúng, hiệu quả; có
biện pháp tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ ở đơn vị; là khả năng tập hợp,
động viên, kiểm tra người lao động, quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế - xã hội ở cơ sở đạt hiệu quả cao; khả năng chấn chỉnh và
cải tiến sinh hoạt Đảng, thực hiện có nề nếp việc quản lý đảng viên và công tác
phát triển Đảng tại cơ sở.
Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ phụ thuộc vào khả năng tuyên truyền, vận động,
thuyết phục, tập hợp quần chúng của từng cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng,
trong đó, tiêu biểu nhất là thể
hiện ở năng lực lãnh đạo của cấp ủy. Năng lực lãnh đạo của
cấp ủy càng cao thì việc đề ra chủ trương, kế hoạch và chương trình hành động
của đơn vị càng bảo đảm kịp thời, đúng đắn, sáng tạo, có hiệu quả. Bí thư cấp
ủy phải là người có đủ phẩm chất, năng lực, nhất là năng lực trong chỉ đạo,
điều hành thực tiễn; có kinh nghiệm về quản lý, tổ chức sản xuất; là người cán
bộ gương mẫu về mọi mặt, có khả năng tập hợp, quy tụ quần chúng, biết khơi dậy
trí tuệ của cán bộ, đảng viên, phối hợp chặt chẽ các hoạt động của cơ quan, các
đoàn thể nhân dân; triển khai tổ chức sản xuất kinh doanh, chương trình công
tác của đơn vị đi đúng hướng và đạt hiệu quả cao.
Sức chiến đấu của TCCSĐ là khả năng vượt mọi khó khăn,
gian khổ để giành thắng lợi trong quá trình lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoạt động
đúng định hướng, đạt hiệu quả cao.
Sức chiến đấu của TCCSĐ được thể hiện tập trung ở chất lượng chính trị của
tổ chức: biểu hiện cụ thể ở phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và tính tiên
phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị; ở sự lãnh đạo
của tổ chức Đảng đối với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế -
xã hội đúng chủ trương, định hướng của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ là hai mặt của một vấn đề có quan hệ biện chứng với nhau. Vì vậy, không
nên coi trọng mặt này, xem nhẹ mặt kia, đồng thời cũng không nên tách biệt
tuyệt đối hai mặt đó với nhau. Bởi đó là hai thuộc tính cần có, gắn bó hữu cơ
của một tổ chức Đảng, bảo đảm để tổ chức Đảng thực sự là hạt nhân chính trị ở
cơ sở.
Xem xét, đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở Đảng trong thời gian qua, chúng ta ghi nhận những mặt đạt được đồng thời
thẳng thắn chỉ rõ mặt hạn chế, tồn tại. Cụ thể là:
Thứ nhất, mặt đạt được:
Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng,
chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên đạt được một số kết quả tích cực; chú trọng
hơn xây dựng, củng cố TCCSĐ ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó
khăn. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình TCCSĐ được xác định phù hợp hơn. Công
tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo.
Số lượng đảng viên mới kết nạp hàng năm đều tăng. Qua đó, nâng cao một bước
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ.
Thứ hai, mặt hạn chế,
yếu kém, chậm được khắc phục: Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít
TCCSĐ còn thấp; không ít tổ chức cơ sở Đảng buông lỏng nguyên tắc sinh hoạt và
kỷ luật Đảng, giảm sút sức chiến đấu; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ;
sinh hoạt Đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự phê bình và phê
bình yếu; việc đánh giá, phân loại TCCSĐ, đánh giá phân loại chất lượng đảng
viên ở không ít nơi còn hình thức chưa phản ánh đúng thực chất tổ chức cũng như
đội ngũ…
Thực trạng hoạt động của các TCCSĐ hiện nay được đặt trong bối cảnh tình
hình thế giới, khu vực và trong nước có những thời cơ, thuận lợi song cũng
không ít khó khăn, thách thức đặt ra cho Đảng ta nhiều vấn đề cần phải giải
quyết. Trong đó, bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII của Đảng chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt trầm trọng hơn.
Để phát huy mặt đạt được, khắc phục những hạn
chế, yếu kém, đối diện với khó khăn, thách thức, tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ trong giai đoạn hiện nay, mỗi cấp ủy Đảng
cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và
kiện toàn TCCSĐ tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại
hình TCCSĐ.
Hai là, gắn việc xây dựng các TCCSĐ trong sạch,
vững mạnh tiêu biểu với xây dựng đơn vị, cơ quan và các đoàn thể quần chúng
vững mạnh. Xác định rõ trách nhiệm của chi bộ, chi ủy, người đứng đầu TCCSĐ và
phân công nhiệm vụ cho từng đảng viên trong công tác.
Ba là, đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, gắn
nội dung sinh hoạt chi bộ thường kỳ với tình hình, nhiệm vụ của đơn vị, địa
phương. Tăng cường sinh hoạt chuyên đề, đưa nội dung đẩy mạnh học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào sinh hoạt Đảng.
Bốn là, chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
và làm tốt công tác phát triển Đảng, nhất là ở nông thôn, ở các doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Năm là, nâng cao hiệu quả công
tác vận động nhân dân, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng.
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của TCCSĐ là nội dung cơ bản, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng. Đảng bộ
Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định là tổ chức Đảng cơ sở, trực thuộc
Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh. Theo Quy định số 97-QĐ/TW ngày 22/3/2004 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng khoá IX, Đảng bộ có chức năng: “Là hạt nhân chính trị,
lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ, công tác của
đơn vị; hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước; nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của cán bộ, đảng viên và quần chúng; xây dựng Đảng bộ, chi bộ và đơn vị
vững mạnh”.
Hiện nay, Đảng bộ nhà trường có 7 chi bộ với 43 đảng viên. Trong những năm
qua, Đảng bộ nhà trường cũng như từng chi bộ luôn quan tâm đến việc nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ để TCCSĐ thực sự vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng bộ luôn quán triệt và nắm vững các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, vận dụng vào tình hình, đặc điểm của Nhà trường trong
từng thời kỳ, đồng thời tích cực, thường xuyên tuyên truyền chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến từng đảng viên và mỗi đảng
viên đều có ý thức chủ động thực hiện nhiệm vụ này đối với học viên thông qua
mỗi bài giảng, đối với các quần chúng nơi cư trú... Ngoài ra, Đảng bộ nhà
trường còn thường xuyên duy trì và đổi mới nội dung, phương thức sinh hoạt Đảng
uỷ, chi uỷ, chi bộ; chỉ đạo tốt công tác Đại hội chi bộ theo nhiệm kỳ; đồng
thời làm tốt công tác quản lý đảng viên và phát triển đảng viên mới. Chỉ tính
riêng trong nhiệm kì 2010-2015, Đảng bộ đã cử 13 quần chúng ưu tú đi học lớp
đối tượng Đảng và đã kết nạp được 13 đảng viên mới.
Đảng uỷ thường xuyên đôn đốc cấp uỷ, chi bộ quan tâm làm tốt công tác giáo
dục, quản lý đảng viên, chú trọng công tác kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ
Đảng và những việc đảng viên không được làm, việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW
của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay”; Thực hiện Quy định số 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc
đảng viên giữ mối liên hệ với cấp uỷ, địa phương nơi cư trú...
Bên cạnh những hoạt động nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, Đảng bộ Trường
Chính trị Trường Chinh còn quan tâm đến việc nâng cao sức chiến đấu của TCCSĐ
bằng một số hoạt động cụ thể như: 100% đảng viên của Đảng bộ thường xuyên rèn
luyện tu dưỡng đạo đức, có phẩm chất chính trị tốt, không có tình trạng suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức và lối sống trong cán bộ, đảng viên; luôn đi đầu gương mẫu
tiên phong trong các hoạt động của Đảng bộ tỉnh nói chung và nhà trường nói riêng,
vượt mọi khó khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị. Kết quả Đảng bộ
nhà trường nhiều năm liền được xếp loại Đảng bộ trong sạch, vững mạnh tiêu
biểu.
Tuy nhiên, Đảng bộ nhà trường trong những năm qua cũng còn một số hạn chế
cần được khắc phục như: Đôi khi có những biểu hiện coi trọng công tác lãnh đạo
chuyên môn hơn công tác Đảng; tính chủ động, tính thống nhất ở một số chi bộ có
lúc chưa cao...
Phát huy những thành tích đã đạt được, khắc phục mặt còn tồn tại, nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ, Đảng bộ nhà trường từ nay đến
năm 2020 và những năm tiếp theo cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải
pháp:
Thứ nhất, tích cực học
tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp tới từng đảng viên, cán bộ,
giảng viên, nhân viên, học viên trong nhà trường. Qua đó, nâng cao nhận thức
chính trị, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động, sớm đưa Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX vào cuộc sống; tiếp tục thực hiện Chỉ thị 03, Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI); tiếp tục xây dựng chi bộ, Đảng bộ trong sạch vững
mạnh: Có nội dung, chương trình, kế hoạch công tác cụ thể phù hợp với tình
hình, nhiệm vụ của từng chi bộ, nâng cao chất lượng đảng viên và chất lượng
sinh hoạt Đảng, thường xuyên quan tâm giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên về
mọi mặt. Nêu cao tính tiền phong gương mẫu của đảng viên. Phát hiện và xử lý
kịp thời các vi phạm kỷ luật Đảng (nếu có), tiếp tục thực hiện tốt công tác quy
hoạch cấp uỷ, cán bộ, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ
cán bộ, giảng viên.
Thứ hai, tiếp tục tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động chuyên môn như: Hoạt động nghiên cứu khoa
học, nghiên cứu thực tế, việc giảng dạy của giảng viên; hoạt động phục vụ giảng
dạy, quản lý và bảo vệ cơ sở vật chất của bộ phận hành chính.
Thứ ba, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ của Nhà trường
đảm bảo phải là những đồng chí có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực
chuyên môn giỏi, có khả năng tổ chức, quản lý, điều hành công việc, gương mẫu,
tận tuỵ với công việc của khoa, phòng và nhà trường; lắng nghe ý kiến của quần
chúng, thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm, cải tiến lề lối và tác phong
công tác.
Thứ tư, chú trọng công tác kiểm tra, giám sát của TCCSĐ. Đẩy mạnh
hoạt động của Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ; phát hiện nhanh chóng các hành vi vi
phạm những điều đảng viên không được làm, những hành vi vi phạm pháp luật, giải
quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại (nếu có).
Thứ năm, để TCCSĐ thực
sự là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở Đảng bộ nhà trường cũng
cần chú ý tiếp tục xây dựng các đoàn thể vững mạnh. Đảng uỷ thường xuyên lãnh
đạo, chỉ đạo hoạt động của các đoàn thể trong hệ thống chính trị của Nhà trường
và tạo điều kiện cho các đoàn thể đó hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của tổ
chức.
Có thể khẳng định rằng: Đảng ta muốn thực sự
mạnh, phải quan tâm nâng cao chất lượng của TCCSĐ và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên; phải có các biện pháp đồng bộ, chúng ta mới nâng cao
được chất lượng của tổ chức đảng ở cơ sở và bảo đảm cho các TCCSĐ thực sự là
nền tảng, hạt nhân chính trị của Đảng. Đảng bộ Trường Chính trị Trường Chinh
xác định được nhiệm vụ chính trị của tổ chức và bằng quyết tâm chính trị cao
cán bộ, đảng viên mỗi chi bộ thuộc Đảng bộ nhà trường nêu cao trách nhiệm, góp
sức xây dựng Đảng bộ nhà trường luôn là TCCSĐ trong sạch, vững mạnh tiêu
biểu./.
NÂNG
CAO VAI TRÒ CỦA ĐOÀN VIÊN THANH NIÊN
TRONG
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ CỦA NHÀ TRƯỜNG
CN.
Nguyễn Thị Thu Lan
Bí thư Đoàn trường
Sinh thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn khẳng định tiềm năng, vai trò, vị trí to lớn của thanh niên
trong sự nghiệp cách mạng, Người luôn tin tưởng và nhìn nhận thanh niên theo
quan điểm phát triển; Người dạy: “Thanh
niên là người chủ tương lai của nước nhà”, “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên”;
Thanh niên “phải tự rèn luyện từ bây giờ
để sau này lên thay những thủ lĩnh mà gánh vác những việc trọng đại của nước
nhà…”.
Thấm
nhuần lời dạy của Bác, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Trường Chính trị Trường Chinh luôn
động viên đoàn viên thanh niên vượt mọi khó khăn học tập, rèn luyện và công
tác, góp phần cùng tạo nên bề dày thành tích 59 năm trong sự nghiệp đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cho tỉnh Nam Định.
Trong quá trình hoạt động, Đoàn trường luôn nhận
được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy, Ban Giám đốc nhà
trường; Đoàn khối các cơ quan tỉnh, kịp thời hướng dẫn sát sao về chuyên môn,
nghiệp vụ trong công tác Đoàn. Về tổ chức biên chế hoạt động hiện Đoàn trường
có 22 đồng chí đoàn viên thanh niên còn trong tuổi đoàn. Trong đó 05 đồng chí
trong Ban Chấp hành Đoàn, 01 đồng chí Bí thư, 01 đồng chí Phó Bí thư, 03 đồng
chí ủy viên và 17 đồng chí đoàn viên, thanh niên; đoàn viên nam có 06 đồng chí,
nữ có 16 đồng chí. Về trình độ: 05 đồng chí có trình độ thạc sĩ, 03 đồng chí
đang học cao học, còn lại các đồng chí có trình độ đại học, cao đẳng và trung
cấp.
Đoàn viên thanh niên của Đoàn trường hầu hết là
những người có trình độ, được đào tạo cơ bản, có nhiều kinh nghiệm trong công
tác, tích cực học tập và rèn luyện trong đơn vị có bề dày truyền thống dạy tốt,
học tốt. Trong nhiều năm gần đây, Đoàn trường có nhiều thay đổi, nhiều đồng chí
đoàn viên đã trưởng thành đoàn và hiện là lãnh đạo các khoa, phòng của Nhà
trường; nhiều đồng chí đảng viên là giảng viên, nhân viên mới được tuyển dụng.
Điều đó tác động không nhỏ tới chất lượng hoạt động của Đoàn trường trong thời
gian qua. Vượt lên những khó khăn đó đoàn viên, thanh niên nhà trường đã cố
gắng nỗ lực tu dưỡng học tập và rèn luyện để đạt được một số kết quả sau:
- Về công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho đoàn viên thanh niên:
Đoàn thanh niên nhà trường làm tốt
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tích cực tuyên truyền cho đoàn viên thanh
niên hiểu sâu sắc về vai trò của Đảng, từ đó luôn tuyệt đối tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng ủy nhà trường, tích cực tham gia xây dựng Đảng ủy nhà trường
ngày càng vững mạnh. Trong các đợt sinh hoạt Đoàn, Ban Chấp hành Đoàn thực hiện
tốt công tác tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, nội quy, quy chế hoạt động của cơ quan tới các đoàn viên thanh niên; luôn
gần gũi, chia sẻ động viên đoàn viên thanh niên phấn dấu vượt qua mọi khó khăn
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Mỗi Đoàn viên, thanh niên không
ngừng phấn đấu, rèn luyện phẩm chất, đạo đức người cán bộ, công chức, viên
chức, thực hiện tốt quy chế làm việc tại cơ quan, phát huy dân chủ, sống trong
sáng, lành mạnh, gắn bó với tập thể, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng
phí, tích cực nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị và trình
độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Đối với công tác chuyên môn,
nghiệp vụ tại đơn vị:
Các đồng chí đoàn viên thanh niên
tích cực tham gia công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế
và công tác phục vụ; thường xuyên nêu cao vai trò trách nhiệm, nhiệt tình hưởng
ứng các đợt thi đua “Dạy tốt, học tốt,
phục vụ tốt” do nhà trường phát động. Hăng hái đăng kí tham gia hội giảng
với tinh thần sáng tạo đã đạt thành tích cao. Năm 2015, có 05 đồng chí tham gia
hoạt động hội giảng do nhà trường tổ chức; 02 đồng chí đoàn viên thanh niên
được lựa chọn tham gia hội thi giảng viên giỏi khối các trường chuyên nghiệp do
Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định tổ chức đồng chí Đinh Thị Oanh đạt giải
Ba, đồng chí Đàm Cao Thượng giải Nhì thi giảng viên lý luận giỏi lực lượng vũ
trang. Với những lỗ lực không ngừng phấn đấu vươn lên đồng chí Vũ Quốc Mạnh,
đoàn viên giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đạt giải Nhì.
Các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và
nghiên cứu thực tế tại mỗi khoa, phòng được các đoàn viên thanh niên tham gia
tích cực, đầy đủ, hiệu quả, chất lượng ngày một nâng cao; đặc biệt thông qua
hoạt động nghiên cứu thực tế mỗi đoàn viên thanh niên đã tự thu thập được kiến
thức thực tiễn để làm phong phú bài giảng.
Đoàn viên là nhân viên khối phòng, ở
những vị trí công việc được giao đã vượt mọi khó khăn hoàn thành tốt các nhiệm
vụ như: Phục vụ hội trường lớp học, quản lí tài sản nhà trường, kết hợp với các
khoa thực hiện công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế cho giảng viên…
- Đối với các hoạt
động phong trào:
Đoàn viên thanh niên nhà trường luôn
tham gia tích cực, đầy đủ các họat động do nhà trường và Đoàn khối các cơ quan
tỉnh phát động như: Văn nghệ, giao lưu thể thao, hoạt động tình nguyện, hoạt
động giữ gìn vệ sinh cơ quan xanh, sạch đẹp. Trong các hội thi văn nghệ, thể
thao do Đoàn khối tổ chức, Đoàn trường luôn đạt các giải cao: Giải Xuất sắc
cuộc thi: “Tiếng hát tháng 5”; giải Nhì hội thi “Cắm hoa nấu ăn” - Cụm các
trường chuyên nghiệp, kỷ niệm ngày 20/11/2015, do Đoàn khối các cơ quan tỉnh tổ
chức với chủ đề “ Tri ân thầy cô”.
Đoàn thanh niên nhà trường đã đóng
góp xây dựng nhà tình nghĩa cho bà con nghèo các huyện ven biển; tham gia hiến
máu nhân đạo nhiều đợt hàng năm, đặc biệt năm 2015, có 15 đồng chí đoàn viên
tham gia hiến máu nhân đạo do Hội chữ thập đỏ và Đoàn khối các cơ quan tỉnh
phát động; Đoàn trường cũng kết hợp với Chi đoàn Hội Nông dân tỉnh tặng 100
suất quà và tiền xây dựng sân chơi cho các em Trường Khuyết tật tỉnh Nam Định.
Đoàn trường luôn tham gia đầy đủ các hoạt động do Đoàn khối các cơ quan tỉnh
phát động và được đoàn cấp trên biểu dương.
- Có được những kết
quả đó là do:
Đảng ủy, Ban Giám
đốc luôn tin tưởng vào thế hệ trẻ của Nhà trường, đã có nhiều chủ trương, chính
sách, tạo cơ hội cho tuổi trẻ thể hiện vai trò xung kích trong thực hiện nhiệm
vụ chính trị của Nhà trường, như: Đi học nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ
lý luận, đi nghiên cứu thực tế trong tỉnh và các tỉnh ngoài; mở rộng và đa dạng
hóa loại hình đào tạo bồi dưỡng; đổi mới mãnh mẽ phương pháp dạy học; đổi mới cách
đánh giá kết quả dạy - học; gắn hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực
tiễn với việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; hiện đại hóa cơ sở
vật chất, phương tiện dạy - học…đã tạo điều kiện cho đoàn viên thanh niên khắc
phục khó khăn về học tập, rèn luyện, về việc làm, về thu nhập, nhằm nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần.
Mỗi đoàn viên thanh niên đều tự ý thức được trách
nhiệm của mình, luôn không ngừng học hỏi, rèn luyện phẩm chất đạo đức, chuyên
môn nghiệp vụ để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, trong quá
trình hoạt động, đoàn viên thanh niên nhà trường còn gặp phải không ít những
khó khăn: Một số đoàn viên vừa học tập, vừa công tác, phần lớn đang trong độ
tuổi lập gia đình, nuôi con nhỏ, tỉ lệ nữ nhiều… nên phần nào ảnh hưởng tới
thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao, như: Hiệu xuất sử dụng thời giờ làm
việc chưa khoa học, thời gian tập trung cho nghiên cứu khoa học, viết bài, tham
khảo kinh nghiệm giảng dạy của các thế hệ giảng viên đi trước chưa nhiều; trong
quá trình giảng dạy còn thiếu kiến thức thực tế, nặng về lý thuyết…
Để tiếp tục thể hiện xứng đáng vai
trò xung kích trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Nhà trường trong thời kỳ
phát triển mới, Đoàn trường và từng đoàn viên cần phải: Thứ nhất, Đoàn thanh niên
nhà trường phải đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục tư tưởng cho
đoàn viên thanh niên, thường xuyên tổ chức tuyên truyền tới đoàn viên chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Thông qua các buổi nói
chuyện, tọa đàm tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên qua đó kịp thời báo
cáo Đảng ủy, Ban Giám đốc quan tâm giải quyết; xây dựng Đoàn trường vững mạnh,
đoàn kết, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ban Giám đốc nhà trường.
Thứ hai, mỗi đoàn viên là giảng viên phải thể hiện vai trò xung
kích trong đổi mới phương pháp dạy - học, nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng
cán bộ; phải thường xuyên nghiên cứu cập nhật thông tin lý luận và thực tiễn bổ
sung kịp thời vào bài giảng, đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng tích cực
hóa hoạt động người học, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy - học; đảm bảo
quy trình lên lớp và kiểm tra đánh giá kết quả học tập rèn luyện của học viên.
Thứ ba, luôn đi đầu trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học, tổng
kết thực tiễn. Mỗi đoàn viên thanh niên là giảng viên phải có công trình nghiên
cứu khoa học, có nhiều bài viết nghiên cứu lý luận và thực tiễn trên trang
website của Nhà trường và các báo, tạp chí Trung ương, địa phương; tích cực
tham gia các hội thảo khoa học cấp khoa, trường; đi nghiên cứu thực tế có hiệu
quả thiết thực.
Thứ tư, đoàn viên thanh niên phải tham gia tích cực các hoạt
động văn nghệ thể thao, xây dựng đời sống văn hóa trong và ngoài nhà trường
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng môi trường cảnh quan nhà trường xanh,
sạch, đẹp.
Thứ năm, tích cực “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”, đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tích cực tham gia
xây dựng Đảng bộ và các tổ chức chính trị, xã hội trong nhà trường, xây dựng
nhà trường ngày càng vững mạnh. Mỗi đoàn viên không ngừng rèn luyện phấn đấu
trở thành người cán bộ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, xứng đáng với niềm tin mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu dành cho thế hệ trẻ.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nhà trường
cần phải tổ chức nhiều hoạt động thiết thực và phong trào thi đua sôi nổi trong
học tập, rèn luyện và công tác để tạo môi trường, thu hút, động viên các đoàn
viên thể hiện năng lực và sự cống hiến của mình; trong thời gian tới rất mong
Đảng ủy, Ban Giám đốc nhà trường tiếp tục nghiên cứu bổ sung các chủ trương, cơ
chế, chính sách, phát huy mọi nguồn lực để xây dựng nhà trường phát triển đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, trong đó đặc biệt chú trọng phát huy
vai trò xung kích của đoàn viên thanh niên nhà trường./.
NÂNG CAO VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA CHI BỘ KHOA LÝ LUẬN MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH ĐỐI VỚI CÔNG TÁC CHUYÊN MÔN
ThS. Hoàng Đức Hợp
Phó
Trưởng khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Chi bộ khoa Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong bảy đơn
vị khoa, phòng của Nhà trường. Hiện nay có khoa có 8 đồng chí giảng viên, Chi
bộ khoa có 6 đảng viên. Nhiệm vụ chuyên môn chủ yếu của Khoa là giảng dạy “Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh” và các nội dung được phân công trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng,
chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở; thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ chính trị của Nhà trường.
Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong công tác chuyên môn của
Khoa là hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và nghiên cứu thực tế, tự học,
tự nghiên cứu. Vai trò lãnh đạo của Chi bộ chính
là lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn nghiệp vụ được giao. Chất lượng
hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn là sự phản ánh rõ nhất chất lượng lãnh
đạo toàn diện của Chi bộ khoa, là thước đo đánh
giá chất lượng, kết quả công tác lãnh đạo, sức chiến đấu của Chi bộ và là cơ sở
có tính chất quyết định để đánh giá tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.
Hiệu quả phát huy vai trò lãnh đạo của Chi bộ được thể
hiện bằng những chuyển biến tích cực trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của
Khoa, tạo không khí thi đua sôi nổi, góp phần đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị của nhà trường, đổi mới lề lối, tác phong làm việc, tích cực đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao
trình độ chuyên môn hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Trong những năm vừa qua
(cho đến năm 2013), tập thể Chi bộ khoa luôn đạt danh hiệu Chi bộ trong sạch
vững mạnh tiêu biểu. Năm 2010, 2012, được UBND tỉnh tặng Bằng khen. Năm 2011,
2013 đạt danh hiệu Tập thể lao động tiên tiến xuất sắc. Năm 2013, 2014, tập thể
Chi bộ khoa vinh dự được bình chọn là Chi bộ tiêu biểu, điển hình tiên tiến về
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của Đảng ủy khối các cơ quan
tỉnh Nam Định.
Tuy nhiên, qua thực tế quá trình lãnh đạo thực hiện công tác chuyên môn trong thời gian vừa qua, có thể thấy, bên
cạnh những mặt tích cực, thì sự lãnh đạo toàn diện của Chi bộ khoa vẫn còn có
một số hạn chế nhất định làm cho công tác chuyên môn và một số hoạt động khác
của khoa chưa thực sự xứng tầm với những lợi thế của Khoa. Cụ thể như: Công tác
tư tưởng, chất lượng sinh hoạt và triển khai thực hiện Nghị quyết của Chi bộ
vẫn còn hạn chế; công tác giảng dạy vẫn còn một số tiết dạy chưa đáp ứng được
yêu cầu, sự liên hệ giữa lý luận và thực tiễn chưa cao; công tác nghiên cứu
khoa học và nghiên cứu thực tế vẫn còn nặng về hình thức, còn tính đối phó;
công tác quản lý học viên chưa thực sự triệt để và hiệu quả.
Những hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân khách quan
là do ảnh hưởng của sự khủng hoảng kinh tế, chính trị nói chung ở trong nước
cũng như trên thế giới. Những tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập
quốc tế; sự thay đổi của nội dung giáo trình trong chương trình đào tạo, bồi
dưỡng của Học viện, cũng như một số cơ chế, quy chế, chính sách của Nhà trường
mới ban hành và đưa vào thực hiện, nên nhiều đồng chí đảng viên, giảng viên còn
chưa có sự chuẩn bị thật kỹ về lập trường, tư tưởng và cả cách thức tiếp cận để
thực hiện.
Nguyên nhân chủ quan là do Chi bộ khoa có sự bàn giao thế hệ, các đồng chí
có kinh nghiệm giảng dạy nghỉ chế độ, nhà trường tuyển dụng các đồng chí giảng
viên mới, tuy có trình độ, được đào tạo cơ bản, tâm huyết, nhưng do thời gian
công tác còn ít, nên kinh nghiệm còn hạn chế, đặc biệt là kiến thức thực tiễn;
nội dung, chất lượng sinh hoạt chi bộ còn đơn giản, chưa tổ chức được nhiều các
buổi sinh hoạt chuyên đề phục vụ công tác chuyên môn; một số đồng chí đảng
viên, giảng viên trong Chi bộ còn chưa thực sự cố gắng phấn đấu, tâm huyết với
nghề, với nhà trường, tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng, tinh thần tự phê
bình và phê bình chưa cao.
Để khắc phục nguyên nhân những hạn chế trên, nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo
của Chi bộ đối với công tác chuyên môn của Khoa, trong thời gian tới Chi bộ cần
thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục duy trì phát huy truyền thống đoàn kết
thống nhất. Thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy
mạnh phê và tự phê bình, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động
chuyên môn. Làm tốt công tác phát triển đảng viên.
Thứ hai, đổi mới nội dung, hình thức và nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) làm cho mọi đảng viên nâng cao
nhận thức, tự giác chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; thực hiện tốt nghị quyết của chi bộ và của cấp ủy cấp
trên; xây dựng các nghị quyết chuyên đề chỉ đạo công tác chuyên môn, bảo đảm
tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu để chi bộ thực sự là nơi lãnh
đạo, quản lý, giáo dục, rèn luyện và bồi dưỡng cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, Chi bộ phải thường xuyên nắm chắc tình hình, diễn
biến tư tưởng, tâm tư nguyện vọng, kết quả thực hiện nhiệm vụ của đảng viên,
giảng viên, kể cả đảng viên kiêm nhiệm trực thuộc chuyên môn của Khoa, quan tâm
hơn nữa đến quyền lợi chính đáng, chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho cán bộ, đảng viên, giảng viên.
Thứ tư, chỉ đạo các hoạt động chuyên môn theo hướng tích
cực, chủ động, hiệu quả. Quan tâm đến hoạt động nâng cao chất lượng giảng dạy.
Tăng cường sinh hoạt trao đổi chuyên môn, soạn, duyệt giáo án, dự giờ thăm lớp.
Đặc biệt là đối với các đồng chí giảng viên mới vào nghề.
Thứ năm, chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu
thực tế theo hướng thiết thực, hiệu quả, “quan tâm đến chất lượng, không chạy
theo số lượng”, tránh hình thức. Tất cả các hoạt động nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu thực tế đều phải phục vụ cho quá trình nâng cao chất lượng giảng dạy
của Khoa và thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ nhà trường.
Thứ sáu, chỉ đạo tốt hơn nữa công tác quản sinh. Xác định rõ
công tác quản sinh nhằm mục tiêu cuối cùng cũng là để nâng cao chất lượng dạy
và học. Để công tác quản sinh có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phối hợp của
nhiều yếu tố, trong đó, sự lãnh đạo của Chi bộ có vai trò hết sức quan trọng.
Vì vậy, trong thời gian tới Chi bộ phải tập trung xây dựng nghị quyết chuyên đề
về công tác này, chỉ đạo tổ chức thực hiện triệt để và hiệu quả.
Để đáp ứng sự phát triển của Nhà trường trong giai đoạn mới, đòi hỏi đội
ngũ cán bộ, giảng viên của Khoa tập trung trí tuệ thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao. Với vai trò lãnh đạo, định hướng mọi hoạt động của Khoa, Chi bộ cần phát
huy hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, động viên
cán bộ, đảng viên tích cực học tập, trau dồi kiến thức, tích lũy kinh nghiệm,
rèn luyện trình độ lý luận sắc bén, kiến thức thực tế phong phú, đáp ứng ngày
càng cao nhiệm vụ chính trị của Nhà trường./.
YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH HIỆU QUẢ CÔNG VIỆC
CỦA KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
ThS. Nguyễn Thị Thu Hường
Trưởng
khoa Nhà nước và Pháp luật
Đồng thuận - một khái niệm hiện nay được nhiều học giả đề cập đến. Có nhiều
bài viết nhiều quan điểm khác nhau về ý nghĩa, vai trò của sự đồng thuận trong
xã hội, trong tập thể.
Có thể nói ngay từ khi có sự chung sống cộng đồng đã xuất hiện nhu cầu này.
Con người sống trong xã hội cần có sự hợp tác để tồn tại và phát triển. Ngày
nay, khi sự giao lưu của con người càng lớn thì sự đồng thuận càng có vai trò
quan trọng.
Đã có nhiều khái niệm khác nhau về đồng thuận như:
Đồng thuận là sự đồng ý với nhau giữa ít nhất hai người về một vấn đề nào
đó để đi đến thống nhất về hành động.
Hay đồng thuận là kết quả của sự tự giác, sự tự nguyện đồng ý của mọi người
với nhau.
Hoặc đồng thuận là giới hạn của đấu tranh và hợp tác.
Như vậy, ở mỗi góc độ khác nhau thì mỗi học giả đã đưa ra những khái niệm
khác nhau về đồng thuận. Song các tác giả đều thống nhất cho rằng:
Thứ nhất: Đồng thuận là
sự thống nhất về nhận thức và hành động để đạt được mục đích của tập thể, của
cộng đồng, của xã hội.
Thứ hai: Sự đồng thuận
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì ổn định và phát triển của
xã hội, của cộng đồng và của tập thể.
Thứ ba: Lợi ích nằm
ngay trong sự đồng thuận và bản chất của đồng thuận là tìm kiếm lợi ích, lợi
ích ở đây có thể là lợi ích về vật chất cũng có thể là lợi ích về tinh thần.
Thứ tư: Đồng thuận có
vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên khối đoàn kết, thống nhất.
Thứ năm: Đồng thuận có
nhiều cấp độ và loại hình như đồng thuận làng xóm, đồng thuận nghề nghiệp, đồng
thuận giai cấp và đồng thuận xã hội, đồng thuận khu vực và đồng thuận trên phạm
vi toàn cầu.
Đối với hoạt động nghề nghiệp đặc biệt là tập thể khoa chuyên môn như khoa
Nhà nuớc và Pháp luật thì vấn đề đồng thuận không chỉ tạo nên khối đoàn kết nội
bộ khoa mà còn quyết định hiệu quả công việc.
Hiện nay, khoa Nhà nước và Pháp luật có 6 giảng viên trong đó có 4 thạc sỹ
luật, 1 đồng chí đang học Cao học và 1 cử nhân Hành Chính. Đây là một tập thể
nhưng có sự khác nhau giữa các thành viên. Các giảng viên khác nhau về chuyên
môn, trình độ, về tính cách, về thời gian công tác… nên trước một vấn đề, một
nội dung có liên quan đến tập thể, đến lợi ích của cá nhân mình thì mỗi người
sẽ có những quan điểm khác nhau, cách giải quyết khác nhau trong đó có thể có
những quan điểm trái chiều, mâu thuẫn. Muốn hoàn thành nhiệm vụ được giao với
kết quả tốt nhất đòi hỏi phải có sự thống nhất cả về tư tưởng và hành động của
các thành viên trong khoa.
Mặt khác, hiện nay khoa Nhà nước và Pháp luật được phân công giảng dạy
nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng mà nhà trường đảm nhiệm như: Bồi dưỡng
chuyên viên, chuyên viên chính; bồi dưỡng chức danh bí thư, phó bí thư đảng ủy
cấp xã; đào tạo Trung cấp Hành chính - Văn thư, Trung cấp Pháp luật và đặc biệt
là chương trình Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính. Đây là những chương
trình đào tạo, bồi dưỡng có nhiều nội dung khó, hơn nữa đối tượng được đào tạo,
bồi dưỡng là cán bộ đương chức, cán bộ dự nguồn từ cấp xã đến các sở, ban,
ngành của Tỉnh - là những người có trình độ chuyên môn và kiến thức thực tế khá
chắc chắn…Trong những năm qua, nhờ phát huy đồng thuận nên khoa Nhà nước và
Pháp luật đã từng bước vượt qua khó khăn và từng bước khẳng định được vị trí
của khoa trong nhà trường và trong lòng học viên. Nhiều năm liền khoa đạt danh
hiệu tập thể lao động suất xắc, được tặng bằng khen của UBND tỉnh và có giảng
viên được cử chọn đi thi giảng viên giỏi cấp trường, cấp Học viện. …Các giảng
viên đã giảng dạy tốt các bài được giao, gắn lý luận với thực tế; không bỏ giờ,
sót lớp; các giảng viên đã hoàn thành vượt mức nghĩa vụ giảng dạy. Khi giảng
dạy, các đồng chí giảng viên luôn tham gia tích cực vào hoạt động quản sinh ở
các lớp, giúp cho công tác quản sinh của Nhà trường đi vào nền nếp.
Chi bộ khoa các năm qua luôn luôn được Đảng bộ cấp trên công nhận là Chi bộ
trong sạch, vững mạnh, các đảng viên đều được công nhận là đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó liên tục có đảng viên đủ tư cách hoàn
thành suất xắc nhiệm vụ. Tổ Công đoàn khoa luôn được công nhận là tổ Công đoàn
tiên tiến xuất sắc.
Khoa luôn khuyến khích và tạo điều kiện cho các giảng viên tích cực tham
gia các phong trào thi đua; hoạt động Công đoàn, Nữ công, Đoàn thanh niên và
các hoạt động văn hoá thể thao của Nhà trường. Nhiều đồng chí đã đạt giải
trong các kỳ thi tìm hiểu do các tổ chức phát động.
Để đạt được những thành tích
trên một nguyên nhân quan trọng là khoa đã có được sự đồng thuận. Để có sự đồng
thuận cần chú ý những nội dung sau:
- Làm tốt công tác tư tưởng để
từng cán bộ, giảng viên nhận thức được tính tất yếu và tầm quan trọng của sự
đồng thuận. Từng giảng viên phải xác định rõ nhiệm vụ của mình trong nhiệm vụ
của khoa, của Nhà trường.
- Phát huy tinh thần phê bình và
tự phê bình của mỗi cá nhân. Từng giảng viên thẳng thắn nhận ra những thiếu sót
của bản thân, của đồng chí, đồng nghiệp và góp ý xây dựng. Tuy nhiên, việc góp
ý kiến phải chân thành, đúng lúc, đúng nơi để đồng chí, đồng nghiệp mình có thể
lắng nghe và khắc phục. Mỗi cá nhân phải có ý thức giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp
đang có với các đồng chí, đồng nghiệp, trung tâm và học viên cũng như mọi người
xung quanh. Phải suy nghĩ nhận thức đúng đắn các vấn đề dù nhỏ nhất, không suy
diễn theo cách riêng của bản thân để áp đặt, quy kết một cách vô lý cho đồng
chí, đồng nghiệp mà tạo nên khoảng cách với nhau.
- Phát huy tinh thần dân chủ,
thực hiện triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ trong chỉ đạo điều hành hoạt
động của khoa, tạo sự công bằng đối với mọi cá nhân. Muốn có được điều này lãnh
đạo khoa phải thực sự lắng nghe, trân trọng những lời nói thẳng, nói thật,
khuyến khích thảo luận tranh luận, không thành kiến nhưng phải biết định hướng
và lựa chọn ý kiến, quan điểm có giá trị để đưa ra quyết định khi cần thiết.
- Một vấn đề nữa cũng hết sức
quan trọng để tạo ra sự đồng thuận là đảm bảo hài hoà về lợi ích và minh bạch
về tài chính.
Như vậy, đồng thuận có ý nghĩa
quyết định đến hiệu quả công việc. Việc tạo ra và duy trì đồng thuận trong khoa
là trách nhiệm của từng giảng viên và đặc biệt là trách nhiệm của lãnh đạo khoa
Nhà nước và Pháp luật./.
CẢI TẠO, NÂNG CẤP CƠ SỞ VẬT CHẤT, TRANG THIẾT BỊ
NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU DẠY VÀ HỌC TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CN. Phan Mạnh Thành
Phó
Trưởng phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị
Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hiện đại là một trong những yếu tố
cơ bản tác động đến chất lượng giảng dạy của các trường Chính trị. Trong những
năm qua, được sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh, nhà trường không ngừng tu sửa,
nâng cấp, hoàn thiện cơ sở vật chất, lắp đặt trang thiết bị thiết yếu nhằm nâng
cao một bước chất lượng dạy và học.
Thứ nhất, về cơ sở vật chất
Trụ sở nhà trường tương đối khang trang với khuôn viên rộng gần 1ha. Trong
đó có: 1 hội trường lớn, 4 nhà 3 tầng và 1 nhà câu lạc bộ; nhà xe của cán bộ,
học viên được sửa chữa, làm mới. Hệ thống tường bao được xây lại đảm bảo sự an
toàn của cơ quan. Các hạng mục công trình phụ trợ khác như: Đường cấp thoát
nước được cải tạo nhằm tiết kiệm một lượng lớn nước tiêu dùng hàng tháng. Cây
xanh, vườn hoa của Nhà trường được chăm sóc chu đáo, khuôn viên nhà trường ngày
càng khang trang và phù hợp với cảnh quan môi trường sư phạm.
Đặc biệt, với nguồn ngân sách tỉnh cấp, nhà trường đã cùng đơn vị thi công
triển khai thực hiện dự án “Nâng cấp, cải tạo lớp học, nhà ở học viên và các
hạng mục phụ trợ khác”. Công trình đã được khởi công từ 01/01/2015 với 32 phòng
nghỉ học viên khép kín, phòng ăn, bếp ăn một chiều... Đây được coi là công
trình trọng điểm chào mừng thành công Đại hội Đảng bộ nhà trường khóa VIII,
nhiệm kì 2015-2020, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, hướng tới kỷ niệm 60 năm thành lập trường
(9/6/1956-9/6/2016). Dự án đã hoàn thành vượt tiến độ, được nghiệm thu và đưa
vào sử dụng từ ngày 14/10/2015. Hiện nay, nhà trường tiếp tục triển khai thi
công các hạng mục bổ sung của Dự án: Nhà A - nhà làm việc của cán bộ, giảng
viên và nhà B - nhà nghỉ học viên, dự kiến hoàn thành trước tháng 5/2016. Đây
là sự quan tâm sát sao của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đồng thời cũng là sự nỗ lực
cố gắng của Đảng ủy, Ban Giám đốc và toàn thể cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà
trường.
Thứ hai, về trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học
Nhà trường trang bị 01 phòng máy vi
tính với 20 máy có kết nối Internet; 08 máy chiếu gắn tại các hội trường; 02
hội trường lắp đặt điều hoà nhiệt độ và camera (Hội trường I, II và khu vực nhà
để xe học viên phía sau Hội trường I); 100% giảng viên, nhân viên được trang bị
máy tính cố định. Đối với phòng học, hội trường được trang bị bàn ghế, hệ thống
loa đài, âm ly, chiếu sáng, 04 máy tính xách tay dùng cho giảng viên giảng dạy
và các trang thiết bị thiết yếu khác.
Trang thiết bị trong phòng ở của học viên từng bước mua sắm mới, đảm bảo
điều kiện tốt nhất cho học viên. Thay mới toàn bộ chăn, ga, gối, đệm, màn,
chiếu (đối với nhà nghỉ khép kín), chăn, màn, chiếu ...tại tất cả các phòng ở
của học viên để học viên yên tâm nghỉ tại trường.
Có thể khẳng định rằng, với cơ sở vật chất và trang thiết bị của Nhà trường
về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu phục vụ hoạt động dạy và học. Có được kết quả trên
trước hết là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trong hoạt động đầu tư công của Tỉnh
ủy, UBND tỉnh; sự chỉ đạo quyết liệt của tập thể lãnh đạo nhà trường; sự đồng
thuận, chung sức của đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà trường và sự
tích cực chủ động của phòng tham mưu - phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị.
Mặc dù cơ sở vật chất, trang thiết bị của Nhà trường hiện
nay đã được tăng cường một bước, song hệ thống cơ sở vật chất hiện có của Nhà
trường vẫn còn khá khiêm tốn so với các trường trong khu vực và so với nhiệm vụ
chính trị của một trường đào tạo cán bộ của tỉnh. Do vậy, thời gian tới Nhà
trường cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, Ban quản lý Dự
án tiếp tục sát sao các hạng mục công trình còn lại đảm bảo đúng tiến độ, chất
lượng, mỹ quan công trình. Những năm tiếp theo, đề nghị lãnh đạo tỉnh tiếp tục
đầu tư kinh phí cho Nhà trường sửa chữa nâng cấp sân, hệ thống cấp thoát nước
tại khu nhà C; trang bị phương tiện hiện đại cho các phòng chức năng như: phòng
phương pháp, phòng truyền thống, bếp ăn, phòng nghỉ của học viên; lắp đặt điều
hòa ở các phòng học còn lại,...
Hai là, tăng cường mở
rộng mối quan hệ, sự phối kết hợp và tạo điều kiện của các sở, ban, ngành, địa
phương trong và ngoài tỉnh.
Có thể khẳng định rằng, cơ sở vật chất, trang thiết bị của Nhà trường đã
được cải thiện đáng kể đáp ứng về cơ bản yêu cầu dạy và học trong giai đoạn
hiện nay. Song so với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của một trường đào
tạo cán bộ cho tỉnh, trong những năm tiếp theo lãnh đạo tỉnh cần tiếp tục đặc
biệt quan tâm đầu tư phấn đấu xây dựng Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam
Định đạt chuẩn theo quy định của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh./.
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NỮ VIÊN CHỨC
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CN. Mai Thị Thanh Hương
Giảng
viên khoa Dân vận
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước
và giữ nước, trong đó phụ nữ Việt Nam giữ một vai trò trọng yếu. Trong lớp học ở
Quảng Châu, khi nói về vai trò của phụ nữ, Hồ Chí Minh đã nhắc lại quan điểm của
Mác: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn
sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi”. Người
đã phong tặng phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng
“Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” và trong thời kỳ đổi mới Đảng,
Nhà nước lại tiếp tục phong tặng phụ nữ Việt Nam danh hiệu “trung hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng”.
Đó không chỉ là sự khích lệ, động viên mà còn là sự thừa nhận và đánh giá cao
(khẳng định) vai trò của phụ nữ Việt Nam.
Trong những năm qua, nữ cán bộ, công chức, viên chức Trường
Chính trị Trường Chinh đã không ngừng phấn đấu học tập và rèn luyện đáp ứng nhu
cầu đào tạo cán bộ cho tỉnh, góp phần xây dựng bản thành tích 59 năm xây dựng
và trưởng thành của Nhà trường. Hiện nay trường đã trải qua 59 năm xây dựng và
trưởng thành. Trường hiện có 53 cán bộ, giảng viên, nhân viên, trong đó tỷ lệ nữ
là 39 đồng chí, chiếm 73,6%. Số cán bộ, viên chức nữ mang mã ngạch giảng viên
có 30 đồng chí, chiếm 75% tỷ lệ giảng viên đứng lớp. Về trình độ chuyên môn: Số
giảng viên nữ có trình độ thạc sỹ là 15 đồng chí và có 4 đồng chí đang học cao
học, chiếm 79% tổng số cán bộ, giảng viên có trình độ thạc sỹ và đang học cao học
của trường. Số cán bộ, viên chức nữ có trình độ đại học là 19 đồng chí, chiếm
35,8% tổng số cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà trường, 02 viên chức nữ có
trình độ trung cấp chiếm 3,7%. Về trình độ lý luận chính trị: có 15 cán bộ,
viên chức nữ có trình độ cao cấp lý luận chính trị trong tổng số 25 cán bộ,
viên chức có trình độ cao cấp lý luận chính trị của Trường.
Trong tổng số đảng viên nhà trường, tỷ lệ nữ đảng viên là
36 người, chiếm 75%. Số cán bộ, viên chức nữ giữ cương vị lãnh đạo, quản lý đảng,
chính quyền, đoàn thể là 15 người, chiếm 55% lực lượng cán bộ lãnh đạo quản lý
nhà trường (trong đó có 01 đồng chí trong Ban Giám đốc và là Bí thư Đảng ủy,
5/9 đồng chí là Đảng ủy viên). Đặc biệt từ năm 2013 đến nay, Trường Chính trị
Nam Định là một trong số ít trường Chính trị tỉnh có Giám đốc nhà trường là nữ.
Với vai trò thủ trưởng cơ quan, đồng chí đã lãnh đạo tập thể nhà trường vượt
qua những khó khăn, điều hành công việc một cách hiệu quả, cùng đồng nghiệp,
xây dựng tập thể nhà trường đoàn kết thống nhất. Những thống kê trên đã cho thấy
sự nỗ lực và quyết tâm cống hiến của phụ nữ nhà trường trong những năm qua.
Trong công tác lãnh đạo, quản lý các khoa, phòng, sự tham
gia đóng góp của các đồng chí cán bộ nữ là không nhỏ. Bên cạnh công tác chuyên
môn, các đồng chí còn đảm nhiệm quản lý, lãnh đạo các đơn vị, do đó áp lực công
việc là rất lớn. Tuy nhiên với sự nỗ lực, sự tận tâm cống hiến các đồng chí đã
xây dựng được tập thể khoa, phòng đoàn kết phát triển, duy trì tốt kỷ luật làm
việc, biết hy sinh cá nhân, dành nhiều tâm huyết và thời gian cho công tác quản
lý, quan tâm đến quyền lợi của nhân viên. Mặt khác, các đồng chí còn làm tốt
công tác tham mưu giúp Ban Giám đốc đưa ra những quyết định quản lý đúng đắn hiệu
quả, đóng góp to lớn vào sự phát triển đi lên của Nhà trường.
Trong lĩnh vực giảng dạy, nhiều đồng chí đã nỗ lực phấn đấu
đạt danh hiệu "Giảng viên dạy giỏi" các cấp. Tỷ lệ nữ đạt danh hiệu
giảng viên dạy giỏi cấp Học viện, cấp tỉnh, cấp trường ngày càng nhiều. Nhận thức
được tầm quan trọng của đổi mới phương pháp giảng dạy, nhiều đồng chí đã chủ động
áp dụng các phương pháp tích cực để phát huy khả năng sáng tạo của học viên. Vượt
qua những thử thách của công nghệ thông tin, các đồng chí đã ứng dụng thành
công nâng cao chất lượng bài giảng. Nhiều đồng chí trẻ đã tích cực tham dự giờ
giảng của các đồng chí giảng viên có kinh nghiệm để bổ sung thêm kiến thức thực
tiễn. Công tác kiểm tra, thăm lớp, dự giờ giảng được tiến hành thường xuyên,
công tác lấy phiếu đánh giá của học viên đối với chất lượng bài giảng của giảng
viên nữ cũng thu được những kết quả tốt. Đa số học viên đều đánh giá cao giờ giảng
của các giảng viên nữ nhà trường.
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, nhiều đồng chí nữ đã
tham gia nghiên cứu thành công đề tài khoa học cấp khoa, cấp trường và đề tài cấp
tỉnh. Các đề tài nghiên cứu trong những năm qua đã đi sâu vào những vấn đề thực
tiễn đặt ra ở địa phương và đề xuất được các giải pháp có tính khả thi. Qua đó giúp cho các nữ giảng viên có thêm kiến thức
thực tiễn để làm phong phú, sinh động cho bài giảng của mình. Mặt khác, được
sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám đốc nhà trường, thời gian qua 100% nữ giảng
viên đều được đi thực tế ở cơ sở. Điều này đã giúp họ có sự trưởng thành về mọi
mặt và tự tin hơn khi đứng trên bục giảng.
Trong hoạt động quản lý học viên, phát huy thế mạnh của nữ
giới, các đồng chí luôn sáng tạo, linh hoạt trong xử lý các tình huống, vừa mềm
dẻo, vừa cứng rắn nên công tác quản lý khá hiệu quả, nghiêm túc, chặt chẽ. Với
vai trò chủ nhiệm lớp, các đồng chí thực sự là cầu nối giữa học viên với giảng viên và nhà trường. Khi tính chất công việc yêu cầu, các đồng chí
sẵn sàng làm thêm giờ, thêm buổi, thậm chí làm cả những ngày nghỉ nếu cần thiết.
Cùng với các hoạt động trên, nữ cán bộ, viên chức, viên
chức Trường Chính trị Nam Định còn phát huy vai trò trong công tác, phục vụ. Từ
việc đưa đón giảng viên, phục vụ nhu cầu ăn ở sinh hoạt của học viên… đến việc
tiếp đón khách đến thăm trường và các hoạt động khác đều được phối hợp một cách
nhịp nhàng, hiệu quả. Hiện nay, trường đã có hệ thống nhà nội trú cho học viên,
nhà khách và nhà ăn đầy đủ, khang trang. Trường còn có 03 khu nhà xe với diện
tích hàng trăm m2 dành cho cán bộ, giảng viên và học viên, có hệ thống cây xanh, cây cảnh được chăm sóc cắt tỉa thường
xuyên góp phần tạo quanh cảnh tươi đẹp cho nhà trường.
Các hoạt động khác như: ủng hộ các quỹ
nhân đạo, từ thiện, các hoạt động thăm hỏi, động viên luôn được các đồng chí nữ
tham gia nhiệt tình. Với những cố gắng đó, hàng năm trong đợt bình xét thi đua,
nhiều đồng chí nữ đã đạt được danh hiệu "Chiến sỹ thi đua cấp tỉnh",
"Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở". Đó là một phần thưởng xứng đáng cho sự
nỗ lực cố gắng của các đồng chí nữ cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà
trường.
Không chỉ phát huy vai trò ngoài xã hội,
phụ nữ nhà trường còn khẳng định mình là những người mẹ, người vợ đảm đang
trong gia đình. Dù bận rộn công việc, các đồng chí vẫn dành thời gian chăm sóc,
vun vén cho tổ ấm. Kết thúc công việc, các đồng chí lại trở về với ngôi nhà nhỏ
bé của mình để thực hiện thiên chức làm vợ, làm mẹ. Với khả năng quán xuyến công
việc, cách thức tổ chức cuộc sống, bằng tình yêu thương và trách nhiệm các
đồng chí đã xây dựng cho mình một gia đình hạnh phúc. Con em các đồng chí đều khỏe mạnh, ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập. Hàng năm
tỷ lệ các cháu đạt danh hiệu học sinh tiên tiến, học sinh giỏi, tỷ lệ thi đỗ
vào trường chuyên, lớp chọn, vào các trường đại học ngày càng nhiều. Có được những điều đó trước hết là nhờ
sự nỗ lực cố gắng của chính bản thân các đồng chí với vai trò là những người mẹ
trong gia đình. Các đồng chí thực sự xứng đáng là những người giữ lửa cho mái
ấm gia đình, là điểm tựa cho chồng, con vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong
cuộc sống.
Có thể nói nữ cán bộ, giảng viên, nhân
viên Trường Chính trị tỉnh Nam Định đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát
triển của Nhà trường. Đứng trước những yêu cầu ngày càng cao của công tác đào
tạo cán bộ, phụ nữ nhà trường đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử
thách. Tuy nhiên với lòng yêu nghề, với tinh thần trách nhiệm và được sự quan
tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện của gia đình, đồng nghiệp, bạn bè, chắc chắn các
đồng chí sẽ vượt qua để tiếp tục khẳng định mình xứng đáng với danh hiệu Đảng
và Nhà nước phong tặng “Trung hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng”./.
TÂM SỰ CỦA NGƯỜI GIẢNG VIÊN VỀ NGHỀ GIÁO
ThS. Hồ Thị Lý
Giảng viên khoa Nhà nước và Pháp luật
Những ngày đầu mới bước chân lên bục giảng, tôi chưa hiểu hết ý nghĩa của
nhiệm vụ thiêng liêng cao quý - nghề nhà giáo. Theo thời gian, những khó khăn
truân chuyên vất vả vẫn còn đấy nhưng mỗi lần đứng trên bục giảng đều tiếp thêm
cho tôi nghị lực để vượt lên trên tất cả. Dần dà tôi nhận ra, tôi đi dạy không
chỉ truyền đạt kiến thức mà tôi còn cảm nhận được mình đã yêu nghề nhà giáo.
Nghề nhà giáo đã là cuộc sống của tôi.
Tuy nhiên, do đặc thù là trường Chính trị nên việc truyền dạy kiến thức
cũng có những phạm vi nhất định, tôi nhận thấy đối tượng người học là cán bộ,
công chức, viên chức. Họ là những người đã trưởng thành, có vị trí nhất định
trong cơ quan tổ chức, do vậy khi tham gia học tập họ thường khắt khe hơn, đặt ra yêu cầu cao hơn đối với giảng
viên. Hơn nữa học viên là những người có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong
những lĩnh vực nhất định và nhu cầu học tập của họ luôn gắn liền với việc giải
quyết công việc. Nội dung
chương trình đào tạo lý luận chính trị là những kiến thức vừa khái quát, trừu
tượng, vừa có tính chất liên ngành, người giảng viên ngoài nắm vững kiến thức
chuyên môn còn phải có kiến thức đa dạng về các lĩnh vực, về tự nhiên, xã hội.
Với đối tượng học viên chuyên biệt cho nên ngoài kiến
thức chuyên môn ra thì kiến thức về cuộc sống, kinh nghiệm thực tiễn lại càng
được đề cao. Thế nhưng, có thể nói yêu nghề giáo và muốn tâm huyết với nghề đã
và đang chịu thử thách rất lớn - ai đã và đang làm nghề giáo mới thấu hiểu được
sự vất vả đó.
Vâng! Với những ngành khác thì khi hết 8 giờ vàng ngọc họ
có thể toàn tâm tới gia đình, riêng chúng tôi vẫn phải thức đêm để soạn bài.
Chúng tôi là phụ nữ, cũng làm việc, cũng phải lo việc gia đình, con cái mà đến
giấc ngủ cũng phải chia sẻ với công việc, điều này có thật sự đáng quan tâm?
Rồi mỗi lần hội thảo, viết bài nghiên cứu khoa học, chúng tôi không muốn bị phê
bình rằng mình chỉ có lý luận, chỉ biết nghiên cứu đơn thuần mà không quan tâm
tới thực tiễn, chúng tôi cũng phải xuống cơ sở, cũng phải xin số liệu và thâm
nhập thực tế đấy chứ. Khó khăn thật nhiều lắm.
Cuộc sống ngày một phát triển
đi lên, đó là điều ai cũng mong muốn. Thế nhưng đối mặt với nó lại là hàng ngàn
những đổi thay mà không ai có thể lường hết được. Mấy năm nay lương cơ bản vẫn
không tăng, các bộ, ban ngành vẫn soạn thảo, hứa hẹn việc tăng lương nhưng mãi
vẫn giậm chân tại chỗ. Ai cũng phải lo toan cuộc sống gia đình, với đồng lương
ít ỏi đó thử hỏi lòng nhiệt tâm với nghề có vơi đi phần nào.
Nhưng, cuộc sống phải biết vươn lên và giảng viên
chúng tôi cũng vậy, không thể bằng lòng với những gì hiện có, không thể vì cuộc
sống khó khăn trước mắt mà vơi đi nhiệt huyết bởi vì nghề giáo đã là cuộc sống
của tôi. Tôi nghĩ rằng “người thầy cần nhất
cái tâm” để trở thành
người giảng viên lý luận chính trị ở các trường Chính trị tỉnh, cần nhiều những
tiêu chuẩn rất cụ thể về phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, sức khoẻ,
quan hệ xã hội cùng nhiều tiêu chí thuộc kỹ năng tin học, ngoại ngữ… nhưng đây
mới chỉ là những yếu tố cần có để làm một người giảng viên ở Trường Chính
trị. Để có một bài giảng tốt, có chất
lượng còn phải có cái tâm, sự nhiệt huyết đối với nghề. Bởi tâm huyết của người
giảng viên chính là lòng nhiệt tình của mình đối với công việc giảng dạy, một
công việc mà động lực của nó không hoàn toàn từ vấn đề tổ chức, lợi ích vật
chất, tinh thần, mà còn được xuất phát từ tình cảm, nguyện vọng thiết tha, chân
thành của người giảng viên đối với công việc mình làm, nghề mình yêu thích.
Người giảng viên có tâm huyết sẽ biết lượm nhặt, chắt chiu kiến thức, sàng lọc
cô kết nó, để rồi với từng lớp, từng đối tượng học viên, từng hoàn cảnh mà
truyền đạt, diễn giải cho vừa, cho đủ, bằng những phương pháp thích hợp với
mình. Ở họ không bao giờ bị trói buộc bởi điều kiện cụ thể nào, hoàn cảnh nhất
định nào để giảm đi chất lượng bài giảng. Một bài giảng có kết cấu hợp lý, đầy
đủ nội dung, phương pháp phong phú… Song thiếu đi một chút nhiệt tình sẽ giảm
đi tính sâu sắc, sự lan toả. Người học viên đến trường cái họ cần là kiến thức
nhưng họ cũng muốn ở thầy một ngọn lửa nhiệt tình trong bài giảng, một tấm
gương sáng trong cuộc sống đời thường, đó là tấm lòng yêu ngành, yêu nghề, yêu
người.
Chúng ta có thể khẳng
định rằng: Mỗi nghề đều có những vất vả riêng, nhưng nghề dạy học thì vất vả,
gian nan hơn rất nhiều, muốn vượt qua những gian nan, vất vả ấy người giảng
viên không chỉ cần phải có kiến thức chuyên môn vững vàng, mà quan trọng hơn cả
phải có tình thương, ý thức trách nhiệm và tâm huyết với nghề. Thành công lớn
nhất của người giảng viên là có được sự kính trọng của người học và toàn xã
hội. Để đạt được điều này người giảng viên phải không ngừng phấn đấu, trau dồi,
học hỏi trong suốt cả cuộc đời./.