MỤC LỤC
1. Những chuyển biến mới trong công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định năm
học 2015-2016
2. Tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh
4. Quan điểm mới của Đảng và Nhà
nước về quyền con người trong Văn kiện Đại hội XII
5. Xây dựng và phát triển văn
hoá, con người Việt Nam - từ
đề cương văn hoá Việt Nam
(1943) đến Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
XII (2016)
6. Bổ sung, cập nhật quan điểm,
chính sách của Đảng về khoa học, công nghệ trong giảng dạy chương trình Trung
cấp lý luận chính trị - hành chính
7. Một số quan điểm của Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng vận dụng vào giảng dạy tại khoa Lý luận Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định
8. Những điểm mới về dân chủ
trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng
9. Xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII
10. Trách nhiệm của giảng viên
trường Chính trị Trường Chinh đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức tỉnh Nam
Định giai đoạn hiện nay
11. Vai trò của đại biểu hội đồng
nhân dân trong thực hiện chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân xã
12. Quan điểm về công tác dân vận
trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII vận dụng vào công tác giảng dạy
của trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định
13. Vận dụng quan điểm trong Văn
kiện Đại hội XII của Đảng về Nhà nước pháp quyền vào giảng dạy phần “Những vấn
đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN” ở trường Chính trị
Trường Chinh
14. Một số tồn tại của văn phong
ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp xã tỉnh Nam
Định qua khảo sát thực tế
15. Nhận thức mới của Đảng ta về
vai trò thành phần kinh tế tư nhân trong Văn kiện Đại hội XII
16. Hội thi học viên học giỏi lý luận
chính trị lần thứ Nhất - kết quả và kinh nghiệm
17. Bác Hồ với sự nghiệp giáo dục -
đào tạo và “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”
18. Đoàn thanh niên trường Chính trị
Trường Chinh với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh
19. Một số kinh nghiệm trong hoạt
động chuyên môn của phòng Đào tạo
NỘI DUNG BÀI
VIẾT
NHỮNG CHUYỂN BIẾN MỚI TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN
BỘ CỦA TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH TỈNH NAM ĐỊNH NĂM HỌC 2015-2016
ThS. Phạm Thị Thanh Thủy
TUV, Bí thư Đảng uỷ, Giám đốc
Năm học 2015-2016 là năm học đầu tiên thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015-2020, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
32-NQ/TU ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, trường Chính trị Trường Chinh tỉnh
Nam Định đã có những chuyển biến tích cực trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ và đạt những kết quả quan trọng.
Thứ
nhất: trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Ban
Chấp hành Đảng bộ nhà trường đã xây dựng và ban hành Nghị quyết số 06-NQ/ĐU ngày 24/3/2016 về tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi
dưỡng tại trường Chính trị Trường Chinh.
Đây là Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng uỷ nhà
trường nhiệm kỳ 2015-2020. Xác định, muốn nâng cao chất lượng đào tạo, trước
hết cần nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên, Nghị quyết đã đưa ra các
nhóm giải pháp nhằm giữ vững và nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường.
Thứ hai: đổi
mới công tác quản lý chuyên môn
Ban Giám đốc đã chỉ đạo các khoa xây dựng giáo án mẫu,
giáo án bổ trợ của các môn học. Các giáo án bảo đảm theo đúng quy định về giáo
án mẫu của Học viện và có sự điều chỉnh phù hợp với đối tượng học viên của từng
lớp, nội dung kiến thức vừa bảo đảm kiến thức cơ bản vừa bảo đảm kiến thức thực
tiễn, đặc biệt là thực tiễn của địa phương. Các giáo án phải bảo đảm cân đối
giữa các phần: dạy lý thuyết, trao đổi, thảo luận trên lớp, hướng dẫn học viên
tự học, tự nghiên cứu. Hàng năm, nhà trường và
các khoa tổ chức kiểm tra, đánh giá giáo án của giảng viên, chú ý giáo án của
các chương trình mới và của giảng viên trẻ; triển khai lấy phiếu phản hồi từ
người học và đánh giá của các đơn vị phối hợp mở lớp đối với giảng viên.
Nhà trường chỉ đạo các khoa duy trì
nề nếp hoạt động chuyên môn, tổ chức các buổi trao đổi, toạ đàm, nhất là đối
với các bài giảng mới, những nội dung có sự cập nhật kiến thức, văn bản mới để
giúp giảng viên kịp thời tháo gỡ những
vướng mắc trong quá trình chuẩn bị bài giảng.
Hoạt động thao giảng, dự giờ được nhà trường chú
trọng. Hàng năm đều tổ chức thao giảng 2 cấp: cấp khoa với toàn bộ đội ngũ
giảng viên. Căn cứ kết quả thao giảng cấp khoa, chọn giảng viên thao giảng cấp
trường và cấp cao hơn. Năm học vừa qua, nhà trường đã chọn cử 02 giảng viên
tham dự Hội thi giảng viên dạy giỏi trung cấp chuyên nghiệp tỉnh Nam Định, kết
quả cả 02 đồng chí đều đạt danh hiệu
giảng viên dạy giỏi cấp tỉnh (1 giải Nhất, 1 giải Ba); cử 01 giảng viên tham
gia Hội thi giảng viên giảng dạy lý luận chính trị giỏi trong lực lượng vũ trang
cấp thành phố và đạt giải Nhì.
Thứ ba: tiếp tục thực hiện chủ trương
đa dạng hoá hình thức và loại hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Xuất phát từ yêu cầu đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ của tỉnh, nhiều năm qua, nhà trường đã thực hiện đa dạng hoá hình
thức và loại hình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với yêu cầu của tỉnh. Ngoài chương
trình Trung cấp chính trị - hành chính, nhà trường đã mở 2 mã ngành đào tạo
Trung cấp chuyên nghiệp do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý. Hình thức đào tạo
gồm cả tập trung và không tập trung. Thời gian học được tổ chức linh hoạt, cả
trong giờ, ngoài giờ; lớp học theo kỳ 1 tuần/tháng, lớp học 2 ngày/tuần... phù
hợp với nhiều đối tượng người học là cán bộ, công chức. Từ năm 2013 đến nay, số
lượng lớp Trung cấp chính trị - hành chính mở mới mỗi năm tăng lên gấp từ 2 đến
3 lần so với trước đây.
Năm học 2015 - 2016, nhà trường đã giảng dạy
và phục vụ giảng dạy cho 79 lớp với 7.861 học viên (năm học 2014
- 2015 là 65 lớp với 6.645 học viên). Trong đó có 49 lớp Trung cấp chính trị -
hành chính với 4.649 học viên, 3 lớp Trung cấp Pháp luật với 221 học viên,
4 lớp Cao cấp lý luận chính trị với 382 học viên, 23 lớp bồi dưỡng với
2.609 học viên, gồm: bồi dưỡng ngạch
chuyên viên, chuyên viên chính, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, bồi
dưỡng đối tượng Đảng và đảng viên mới. Số lớp Trung cấp chính trị - hành chính khai
giảng trong năm học 2015-2016 là 21 lớp với 1.928 học viên.
Thứ tư: đổi mới hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu
thực tế theo hướng thiết thực, hiệu quả, phục vụ trực tiếp cho hoạt động giảng
dạy
Năm học 2015- 2016 là năm các
hoạt động nghiên cứu khoa học của nhà
trường diễn ra rất tích cực. Năm 2015, đã hoàn thành 02 đề tài khoa học cấp
trường. Năm 2016, đang triển khai thực hiện 7 đề tài khoa học cấp trường và cấp
khoa. Tổ chức 3 Hội thảo, toạ đàm khoa học cấp trường, 7 Hội thảo khoa học cấp
khoa. Hội đồng khoa học nhà trường đã chỉ đạo biên soạn, nghiệm thu và đưa vào
giảng dạy Tập bài giảng tình hình, nhiệm vụ địa phương.
Việc tổ chức đi nghiên cứu thực
tế khá đa dạng: đi theo tập thể khoa, phòng; kết hợp các khoa, phòng; đi theo
tổ chức đoàn thể; đi nghiên cứu cùng học viên các lớp; đi theo nhóm; đi cá
nhân. Nhà trường đang xây dựng Đề án luân chuyển giảng viên đi thực tế dài ngày
tại cơ sở. Thông qua hoạt động nghiên cứu thực tế, đội ngũ giảng viên được bổ
sung nhiều kiến thức thực tiễn quý báu cho bài giảng, gắn lý luận với thực tế.
Thứ năm: coi
trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên
Nhà trường nhận thức: đội ngũ
giảng viên là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng giảng
dạy, là lực lượng nòng cốt khẳng định uy tín, vị thế của nhà trường. Vì vậy,
trong những năm qua, nhà trường đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên bằng nhiều biện pháp, như: Nâng cao chất lượng tuyển chọn giảng
viên: tham mưu xây dựng và thực hiện quy chế xét tuyển giảng viên
đảm bảo chất lượng đầu vào: chỉ tuyển những người tốt nghiệp đại học chính quy,
đúng chuyên ngành đạt loại khá trở lên; có chứng chỉ sư phạm, tin học, ngoại ngữ;
tổ chức sơ tuyển và hợp đồng thử việc; ưu tiên tuyển dụng những người có trình
độ sau đại học, đã làm công tác giảng dạy ở các cơ sở đào tạo; tạo điều kiện thuận lợi và
khuyến khích giảng viên, nhất là giảng viên trẻ đi đào tạo cao học, nghiên cứu
sinh và tham dự các khoá bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ;
tăng cường bổ sung kiến thức thực tiễn cho giảng viên...
Bằng những biện pháp trên, đến
nay đội ngũ giảng viên của nhà trường về cơ bản đủ về số lượng, trình độ chuyên
môn từng bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Thứ sáu: tổ chức thành công Hội thi học viên học giỏi lý
luận chính trị lần thứ Nhất - năm 2016
Hội thi được tổ chức vào ngày 18,
19 tháng 5 năm 2016, thu hút đông đảo học viên các lớp tham gia. Hội thi đã huy
động sự phối hợp công tác giữa các trường Chính trị trong cụm thi đua số 04
(các trường Chính trị trong cụm thi đua cử đại diện tham gia Ban Giám khảo Hội
thi). Việc tổ chức Hội thi cũng đã nhận được sự đánh giá cao của lãnh đạo Học
viện, Vụ các trường Chính trị Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, lãnh đạo
các trường Chính trị trong cụm thi đua số 04 và các đơn vị trong Khối thi đua
các cơ quan Đảng thuộc Tỉnh ủy Nam Định.
Thứ bảy: phong trào thi đua và công tác khen thưởng có
nhiều nét khởi sắc
Năm học 2015-2016, trường
Chính trị Trường Chinh vinh dự được giao đảm nhận vai trò Cụm trưởng Cụm thi
đua số 04 - các trường Chính trị khu vực Đồng bằng sông Hồng, Trưởng khối thi
đua các cơ quan Đảng thuộc Tỉnh ủy Nam Định, hướng tới kỷ niệm 60 năm ngày
thành lập trường, nhà trường đã phát động và tổ chức nhiều hoạt động chào mừng.
Phong trào thi đua đã có những bước chuyển biến tích cực, từng đơn
vị, cá nhân tự giác đăng ký và thực hiện nội dung thi đua. Công tác
khen thưởng tương đối kịp thời, hình thức trao thưởng được chú ý, tôn
vinh các danh hiệu thi đua, quan tâm đến người lao động trực tiếp, có
tác dụng lan toả trong cán bộ, công chức, viên chức.
Từ
những kết quả đạt được, trường Chính trị Trường Chinh vinh dự được nhận Cờ thi
đua xuất sắc của UBND tỉnh và của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong
năm học 2015-2016.
Mỗi
cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà trường tràn đầy niềm tự hào phấn khởi tin
tưởng vào sự phát triển bền vững của nhà trường. Tiếp bước thành tích đã đạt
được, tập thể nhà trường với quyết tâm chính trị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
viết tiếp trang sử truyền thống của trường Chính trị Trường Chinh./.
TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN
TRONG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ThS. Hoàng Đình Trung
Phó Giám đốc
Thực tiễn cách mạng ở nước ta đã
chứng minh rằng: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới, Đảng phải không ngừng đổi mới
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Trong bài viết này, tác giả tập
trung phân tích và đề xuất một số giải pháp tăng cường mối quan hệ với nhân dân
trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là ở chỗ mọi
quyền lực xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể duy nhất của mọi
quyền lực trong xã hội. Trong nền dân chủ đó, quyền lực của Nhà nước và của
Đảng đều có nguồn gốc của từ quyền lực nhân dân. Đảng và Nhà nước không có bất
cứ quyền lực tự thân, bản chất của quyền lực đó là quyền lực “phái sinh” từ
quyền lực của nhân dân. Xuất phát từ bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi
hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước đều nhằm mục đích phát huy
quyền làm chủ và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân. Để thực hiện được mục đích đó, Đảng phải liên hệ, gắn bó chặt chẽ
với nhân dân, phải dựa vào dân để lãnh đạo, bởi lẽ “không có phong trào cách mạng của nhân dân thì không có sự ra đời của
Đảng, không có sự ôm ấp, đùm bọc, che chở, bảo vệ của nhân dân thì không có sự
tồn tại, phát triển của Đảng”.
Tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân được coi là nguyên tắc cốt tử
trong lãnh đạo của Đảng.
Tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định
quan điểm này trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII “phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng…, tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân”.
Đây là một trong năm bài học được Đảng ta rút ra sau 30 năm lãnh đạo công cuộc
đổi mới, là điều kiện bảo đảm củng cố vai trò lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng.
Tăng cường, củng cố mối quan hệ với
nhân dân, dựa vào nhân để thực hiện vai trò lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục mở
rộng dân chủ với nhiều hình thức để nhân dân được tham gia đóng góp ý kiến,
phải bảo đảm “Mọi đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng,
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia đóng góp ý
kiến”.
Những vấn đề còn lại ở chỗ, đã đến lúc nhân dân không chỉ tham gia đóng góp ý
kiến ở khâu xây dựng nghị quyết, quyết định của Đảng, của cấp ủy mà còn phải
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong quá trình tổng kết, sơ kết việc
thực hiện nghị quyết, quyết định đã được ban hành thông qua các kênh khác nhau,
trong đó có việc tổ chức thăm dò dư luận xã hội từ nhân dân. Do đó, Văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng ta khẳng định “Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra
quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”.
Đảng ta từ nhân dân mà ra, được nhân dân giúp đỡ, che
trở. Vì vậy, Đảng phải dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong mọi
giai đoạn lịch sử Đảng ta phải xác định “Xây
dựng Đảng không chỉ là công việc của Đảng mà là công việc của nhân dân, trách
nhiệm của nhân dân”.
Tăng cường mối quan hệ với nhân dân, Đảng phải có quy định và cơ chế cụ thể để
động viên nhân dân, bảo đảm điều kiện để nhân dân tích cực tham gia vào công
tác xây dựng Đảng một cách thường xuyên và thực chất.
Quan trọng nhất là cấp ủy Đảng phải dựa vào nhân dân,
lắng nghe nhân dân, lấy đánh giá từ nhân dân, từ việc xây dựng quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng đến đề bạt, bổ nhiệm cán bộ vào vị trí lãnh đạo quản lý. Nếu
nhân dân không được thực hiện một cách thường xuyên và thực chất việc đánh giá
chất lượng cán bộ, đảng viên, đáng giá sự lãnh đạo của cấp ủy thì nhân dân
không thể gắn bó với Đảng. Đây là nguyên nhân dẫn tới bệnh quan liêu, suy thoái
lối sống, đạo đức của bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng hiện nay ở nước ta.
Cùng với đó, nhân dân gắn bó, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng khi cấp ủy có trách nhiệm và sẵn sàng
chịu trách nhiệm trước nhân dân về quyết định lãnh đạo của mình. Đây là vấn đề
có tính nguyên tắc là Đảng được nhân dân giao quyền lãnh đạo, đại diện nhân dân
thực hiện chức năng lãnh đạo xã hội. Bản chất của quan hệ giữa Đảng và nhân dân
là quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền. Tuy nhiên, phải thẳng
thắn nhận thấy rằng, việc cấp ủy Đảng phải trách nhiệm trước nhân dân về sự
lãnh đạo phần lớn chỉ dừng ở lý luận, ở những quy định chung. Trên thực tế, còn
thiếu quy định và hướng dẫn cụ thể về việc xác định trách nhiệm và chịu trách
nhiệm trước nhân dân. Đây là nguyên nhân của sự lạm quyền, thoát ly khỏi quyền
lực gốc, quyền lực của nhân dân trong quá trình lãnh đạo, quản lý của cấp ủy,
chính quyền đã và đang diễn ra ở một số địa phương. Dẫn tới tình trạng “quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi,
nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm” đã
được Đảng ta thắng thắn chỉ ra trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XII.
Mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân
dân được Đảng ta xác định và thực hiện trong suốt 85 năm lãnh đạo cách mạng
nước ta. Điều đó đem lại cho Đảng sức mạnh to lớn cho Đảng, bảo đảm điều kiện
để Đảng ta có đủ năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu để chèo lái con thuyền cách
mạng nước ta trải qua bao khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu to
lớn trong công cuộc xây dựng đất nước và đổi mới.
Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy mối quan hệ gắn bó
với nhân dân trong lãnh đạo của Đảng, nhất là cấp ủy các cấp từ tỉnh đến huyện
còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát huy vai trò làm chủ và bảo đảm quyền làm
chủ của nhân dân. Vai trò làm chủ của nhân dân trong quá trình lãnh đạo của cấp
ủy chưa được phát huy đầy đủ.
Quy trình xây dựng nghị quyết, quyết định lãnh đạo của
cấp ủy nhìn chung còn khép kín trong nội bộ, chưa thực sự lắng nghe tiếng nói,
nguyện vọng của nhân dân. Điều đó dẫn tới, “Có lúc, có nơi, có việc thực hiện dân chủ
còn hạn chế hoặc mang tính hình thức”.
Trong thực tế, một số nghị quyết, quyết định lãnh đạo của cấp ủy ở các địa
phương chưa thực sự xát với thực tế, chưa phản ánh kip thời tâm tư, nguyện vong
của nhân dân, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội và quá trình sản xuất ở cơ
sở. Niềm tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của cấp ủy vì thế đang đứng
trước những thách thức lớn.
Trong công tác xây dựng Đảng, yêu cầu dựa vào nhân dân
để xây dựng Đảng, quản lý cán bộ, đảng viên hiệu quả thực hiện chưa cao, không
ít nơi còn mang tính hình thức. Còn thiếu quy định và cơ chế cần thiết và đồng
bộ bảo đảm điều kiện để nhân dân tham gia đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ,
hiệu quả lãnh đạo của tập thể cấp ủy, cũng như người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền các cấp. Cùng với đó, phải thừa nhận rằng, còn thiếu quy định và cơ chế
để xác định trách nhiệm và chịu trách nhiệm của cấp ủy trước nhân dân. Trong
thực tế, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy ở những địa phương, đơn
vị để xảy ra những sai phạm, tồn tại trong quản lý của cá nhân, tổ chức chưa
thực sự rõ ràng. Điều đó, làm giảm mất niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
của cấp ủy Đảng.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Theo chúng tôi, cấp ủy Đảng các cấp cần phải bổ
sung những nội dung trong quy chế hoạt động những quy định cụ thể để nhân dân
được tham gia nhiều hơn và thực chất vào quá trình xây dựng nghị quyết, quyết
định lãnh đạo, nhất là đối với những vấn đề lớn, liên quan đến lợi ích và đời
sống của nhân dân. Cần xây dựng và ban
hành các hướng dẫn trong đó xác định rõ những nội dung nào, công việc nào phải
tổ chức để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến; quy trình tổ chức lấy ý kiến của
nhân dân; quy định về xử lý thông tin và sử dụng ý kiến của nhân dân; trách
nhiệm của người đứng đầu và cấp ủy khi không thực hiện nghiêm túc nội dung. Có
như vậy, mới bảo đảm quá trình dân chủ hóa trong hoạt động của cấp ủy Đảng đi
vào thực chất.
Bên cạch đó, cấp ủy nhất là cấp tỉnh và huyện cần
nghiên cứu bổ sung quy định về việc tổ chức thăm dò dư luận xã hội về chất
lượng cán bộ và quyết định lãnh đạo trong quy chế hoạt động. Nội dung thăm dò
dư luận cần tập trung vào công tác cán bộ, đánh giá chất lượng lãnh đạo thực
hiện các nghị quyết của cấp ủy. Điều quan trọng là phải quy định, chế tài bảo
đảm những kết quả của thăm dò dư luận phải là cơ sở quan trọng cho công tác xây
dựng đến sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, thực hiện công tác cán bộ
của cấp ủy. Đồng thời, đã đến lúc, phải có quy định và hướng dẫn thực hiện cụ
thể để có thể xác định trách nhiệm và chịu trách nhiệm của cấp ủy Đảng trước
nhân dân về những tồn tại, hạn chế trong trong hoạt động quản lý của Nhà nước,
của chính quyền các cấp.
Trong những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng của
thực hiện mối quan hệ mất thiết giữa Đảng với nhân dân. Đảng ủy trường Chính
trị Trường Chinh luôn quan tâm tới mở rộng dân chủ, phát huy vai trò làm chủ
của cán bộ, giảng viên, nhân viên trong quá trình lãnh đạo. Công tác cán bộ từ
khâu xây dựng quy hoạch đến quy trình bổ nhiệm, luân chuyển đều bảo đảm tính
dân chủ. Trong năm 2016, Đảng ủy ban hành 2 Nghị quyết chuyên đề, quá trình xây
dựng nghị quyết trên thể hiện rõ tính dân chủ, bảo đảm mọi cán bộ, đảng viên
được nghiên cứu, tham gia đóng góp ý kiến. Từ đó, khối đoàn kết được giữ vững,
sự đồng thuận trong triển khai kế hoạch được bảo đảm.
Đồng thời, với trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ của tỉnh, Đảng ủy, Ban Giám đốc luôn chỉ đạo nâng cao chất lượng công
tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn. Thông qua đó, đội ngũ giảng viên chủ động
xây dựng kế hoạch, tổ chức đi nghiên cứu, khảo sát thực tiễn nắm bắt tình hình
thực tế, tâm tư, nguyện vong, những tồn tại, vướng mắc của nhân dân ở các địa
phương trong tỉnh. Trên cơ sở đó, đưa vào bài giảng nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng, tích cực tham gia đóng góp ý kiến vào Nghị quyết Đại hội và
Nghị quyết chuyên đề của tỉnh./.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG CHI BỘ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
TS.
Đới Văn Tặng
Trưởng khoa Xây dựng Đảng
Xây dựng chi bộ
trong sạch, vững mạnh trở thành hạt nhân chính trị ở cơ sở luôn là vấn đề quan
trọng cả trong lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng của giai cấp công nhân. Từ
rất sớm, các nhà kinh điển Mác xít đã nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng
của vấn đề này và chỉ ra rằng, tổ chức cơ sở đảng là toàn bộ công tác và sức
chiến đấu của Đảng, là nền móng của Đảng và là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Ngay
từ buổi đầu, khi đề xuất tư tưởng xây dựng chính đảng của giai cấp vô sản,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh việc xây dựng hệ thống tổ chức của Đảng phải
từ dưới lên trên, từ chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ đến cơ quan lãnh đạo tối cao
là Ban Chấp hành Trung ương và đại hội đại biểu của Đảng.
Trên cơ sở tiếp thu những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin về xây dựng chính đảng của giai cấp vô sản, trong công tác xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những vấn đề Hồ Chí Minh đặt ra là công tác
xây dựng chi bộ. Theo chỉ dẫn của Người, Đảng muốn mạnh trước nhất phải có mạng
lưới chi bộ vững mạnh. Bởi vì, chi bộ là hạt nhân nòng cốt, là nền tảng của tổ
chức Đảng ở cơ sở, cho nên phải thường xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng, mà
trọng tâm là công tác xây dựng chi bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ tiếp tục
khẳng định vai trò quan trọng của chi bộ Đảng đối với công tác xây dựng Đảng và
của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, mà Người còn đi sâu phân tích và đưa ra những
luận điểm mới về công tác xây dựng chi bộ.
Những luận điểm của Hồ Chí Minh về công tác xây dựng
chi bộ, trong đó phương thức xây dựng chi bộ trở thành hạt nhân chính trị ở cơ
sở, được Hồ Chí Minh coi trọng. Trước hết xuất phát từ những nguyên lý chung -
nguyên lý Mác xít về vấn đề xây dựng Đảng Cộng sản và ngay từ nhận thức ban
đầu, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng không phải là tổ chức để làm quan phát tài, và
Người khẳng định: sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ chức tiên
phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương
đến cơ sở phải thật chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Sức mạnh của các tổ chức
liên quan chặt chẽ với nhau. Trong hệ thống tổ chức của Đảng, phải tuân theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là xương sống chỉ đạo mọi hoạt động của
Đảng. Điều này đòi hỏi tổ chức đảng cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục
tùng đa số, chống mọi biểu hiện bản vị, gia trưởng, địa phương cục bộ... Điều
đó cũng đòi hỏi chế độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng rộng rãi, tạo tiền đề cho
dân chủ xã hội.
Xuất phát từ nhận thức về vị trí, vai trò của chi bộ
Đảng trong xây dựng hệ thống cơ cấu tổ chức của Đảng ta, Hồ Chí Minh nhấn mạnh,
phải tổ chức các chi bộ Đảng sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình ở Việt Nam,
một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm đa số trong dân chúng, giai cấp
công nhân còn nhỏ yếu. Không những thế, trong từng giai đoạn cách mạng, yêu cầu
nhiệm vụ và hình thức tổ chức của chi bộ Đảng cũng thay đổi cho phù hợp. Vai
trò của chi bộ dù ở giai đoạn cách mạng nào cũng là hạt nhân. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chi bộ là đồn luỹ của Đảng chiến
đấu ở trong quần chúng”;
“Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở trong quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách
của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ không ngừng. Trái
lại, nếu chi bộ kém thì công việc không trôi chảy”.
Đó là quan niệm chuẩn xác của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò hạt nhân của chi
bộ đảng trong hệ thống tổ chức Đảng. Để củng cố, kiện toàn, phát huy vai trò
của chi bộ đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh căn dặn, phải không
ngừng hoàn thiện phương thức hoạt động, lề lối làm việc cho phù hợp với tính
chất, nhiệm vụ của từng loại đơn vị cơ sở. Chẳng hạn, với chi bộ ở cơ quan,
Người yêu cầu: “Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng
cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình...”; “mỗi một đảng viên phải
xung phong làm gương mẫu trong mọi việc”.
Đối với Chi bộ ở nông thôn, phải có
hình thức tổ chức, nội dung sinh hoạt, phương thức lãnh đạo phải khác với các
chi bộ ở cơ quan, đơn vị hành chính, các chi bộ công nhân trong nhà máy, xí
nghiệp.v.v.. Người chỉ dẫn: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở nông thôn. Chi bộ vững
mạnh thì mọi chính sách của Đảng và Chính phủ nhất định thi hành được tốt. Muốn
vững mạnh, thì tất cả đảng viên trong chi bộ phải thật thà đoàn kết nhất trí”.
Như vậy, theo Người, trong công tác tổ chức lãnh đạo của Đảng, cần phải hết sức
chú ý đến tính đặc thù trong công tác xây dựng chi bộ ở các đơn vị, lĩnh vực,
ngành nghề khác nhau. Theo Hồ Chí Minh, tất thảy: “Là đảng viên Đảng Lao động
Việt Nam,
thì dù xuất thân từ thành phần khác nhau, cũng đều chung một đại gia đình cách
mạng, đều chung một mục đích là xây dựng chủ nghĩa xã hội, đều chung một lập
trường là lập trường của giai cấp công nhân”.
Sinh thời, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ trong quan hệ với hệ
thống tổ chức của Đảng, quan hệ với các tổ chức của hệ thống chính trị và quan
hệ trực tiếp với nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, cần xác định vai trò của chi bộ
trong ba loại quan hệ chủ yếu, đồng thời cần hết sức chú trọng trong quan hệ sự
tương tác giữa chi bộ với các đối tượng khác.
Một là, đối với bản thân Đảng, chi bộ là tổ chức hạt nhân
quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy, theo Hồ Chí Minh: “Để lãnh
đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các
đảng viên đều tốt”.
Do đó: “cần phải ra sức củng cố các chi
bộ, để tất cả các chi bộ trở nên thật sự là hạt nhân lãnh đạo của Đảng ở mọi bộ, mọi ngành, mọi nghề, mọi nơi”.
Hai là, quan hệ giữa chi bộ và đảng viên; chất lượng đảng viên
quyết định chất lượng chi bộ; chi bộ là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng
là nơi giám sát đảng viên. Hồ Chí Minh xác định: “Đảng viên tốt thì chi bộ mới
tốt. Muốn đảng viên tốt thì chi bộ phải thường xuyên giáo dục mỗi đồng chí.
Nhiệm vụ của đảng viên là gì? Tư cách của đảng viên là thế nào? Đồng thời giúp
đỡ đảng viên hằng ngày tự kiểm điểm mình”.
Ba là, vai trò của chi bộ ở các khu vực dân cư, địa bàn sinh
sống, trong quan hệ giữa Đảng và quần chúng. Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh chỉ
dẫn, trong quan hệ với quần chúng, chi bộ là cầu nối giữa Đảng và quần chúng,
Người chỉ rõ: “Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây
chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng. Nhiệm vụ của chi bộ là: luôn luôn tuyên
truyền cho nhân dân và tổ chức nhân dân, để thực hiện khẩu hiệu, chính sách của
Đảng; luôn luôn chú ý đến tư tưởng và nhu cầu của nhân dân và kịp thời báo cáo
cho cấp trên biết rõ; luôn luôn quan tâm đến đời sống kinh tế, chính trị và văn
hóa của nhân dân, đồng thời giáo dục nhân dân, tổ chức nhân dân để giải quyết
các vấn đề cho nhân dân, chỉ có làm đầy đủ những công việc ấy, thì Đảng mới
liên hệ chặt chẽ với quần chúng”.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ đảng viên,
nhất là các cấp ủy Đảng, với tư cách là người lãnh đạo, phải có ý thức coi
trọng công tác xây dựng tổ chức chi bộ ở cơ sở. Bởi chi bộ là sợi dây, là chiếc
cầu nối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Chỉ khi xây dựng được hệ thống tổ chức
chi bộ tốt, Đảng mới xây dựng được mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân,
tạo nên niềm tin, nguồn sức mạnh, sự thống nhất của toàn Đảng, toàn dân. Sức
mạnh của nhân dân được Hồ Chí Minh đúc kết: “Dễ
trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Một trong những phương châm Hồ Chí Minh chỉ đạo để xây dựng chi bộ vững mạnh,
trở thành chiếc cầu nối thực sự giữa các cấp ủy đảng với hệ thống chính trị và
nhân dân là công tác chỉnh đốn, tự phê bình và phê bình trong Đảng. Vấn đề “thanh
đảng” có thể phù hợp với một số đảng chính trị cầm quyền trên thế giới, nhưng ở
Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ chủ trương “chỉnh đốn Đảng”, coi đó là cách làm phù
hợp, trở thành nhu cầu tồn tại và phát triển của Đảng. Vấn đề cốt lõi là ở chỗ:
“Chi bộ tốt là do các đảng viên tốt”, do đó, Người đặc biệt chăm lo xây dựng
đội ngũ cốt cán trong các chi bộ cơ sở. Chính Người đã khởi xướng cuộc vận động
xây dựng “Chi bộ bốn tốt”; “Đảng bộ bốn tốt” và trực tiếp lãnh đạo, tổ chức,
duy trì, đẩy mạnh phong trào này trong toàn Đảng cho đến phút cuối đời. Trước
lúc đi xa, trong Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn, muốn Đảng thật sự vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, có đủ năng lực lãnh đạo, hoàn thành nhiệm vụ
cách mạng, mỗi cán bộ đảng viên, từ Trung ương đến các chi bộ, “cần phải đoàn
kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ
quốc”; “phải giữ gìn đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”.
Để làm được điều đó: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”.
Những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh đã được Đảng ta nhận
thức một cách sâu sắc và vận dụng vào công tác xây dựng Đảng, khẳng định vai
trò, vị trí và tầm quan trọng của chi bộ và tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng chi bộ
trở thành hạt nhân lãnh đạo: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở)
là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”.
Trong nhiều văn kiện quan trọng, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Tất cả các đảng bộ, chi
bộ ở cơ sở đều nắm vững và thực hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính
trị đối với chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công
tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở”.
Tiếp tục khẳng định vai trò hạt lãnh đạo của chi bộ và tổ chức cơ sở đảng, Văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII nhấn mạnh: “Tập trung củng cố, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đổi mới nội dung, hình
thức, phương pháp, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ
chức cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức, bảo đảm sự lãnh
đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong,
gương mẫu, gần dân, sát dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất
đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững
vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng…
kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Đảng, pháp
luật của Nhà nước”.
Từ những nguyên lý về xây dựng chính đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản mà Mác - Lênin đã nêu ra, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển
sáng tạo vào xây dựng Đảng ta và với nhãn quan chính trị sâu rộng, nhạy bén,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quyết định sáng suốt về hình thức tổ chức
bộ máy, phương thức lãnh đạo, cũng như hoạt động của Đảng nói chung và của chi
bộ nói riêng. Chính nhờ có sự linh hoạt, sáng tạo về hình thức tổ chức và
phương thức hoạt động như vậy, mới bảo đảm cho hoạt động của Đảng được thông
suốt, mau lẹ, kịp thời, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Những hình thức tổ
chức, hoạt động của Đảng do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, mang tính sáng tạo
cả về lý luận và vận dụng thực tiễn, chứ không thuần túy chỉ là sự kế thừa các
hình thức tổ chức đã có trước đó, nhất là trên phương diện tư duy lý luận. Theo
quan điểm của Người, điều quan trọng để xây dựng được một chi bộ tốt, trở thành
hạt nhân lãnh đạo, thành cầu nối thực sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân,
phải hết sức chú trọng đến việc đổi mới công tác tổ chức chi bộ. Để có thể làm
tốt được nhiệm vụ đó, về mặt lãnh đạo phải thấm nhuần quan điểm lý luận phù hợp
với thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo kết quả; phải xuất phát từ yêu cầu
nhiệm vụ, đặc thù, hoàn cảnh của từng chi bộ, chú trọng các mối quan hệ chủ yếu
của chi bộ. Để nâng cao sức mạnh của chi bộ, trước hết phải chú ý đến chất
lượng đảng viên, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ mọi
mặt cho cán bộ, đảng viên, bên cạnh đó, công tác kiểm tra của Đảng phải được
coi trọng và thường xuyên; công tác phê bình và tự phê bình nhằm phát huy tinh
thần dân chủ của đảng viên trong chi bộ; đổi mới sinh hoạt chi bộ cả về hình
thức và nội dung, thời gian sinh hoạt chi bộ, sao cho sát hợp với từng cơ sở,
đối tượng, v.v.. Chỉ có như vậy, công tác xây dựng Đảng mới có hiệu quả, Đảng
mới đảm bảo được vai trò lãnh đạo của mình, hoàn thành sứ mệnh cách mạng và
trọng trách mà nhân dân tin tưởng giao phó./.
QUAN ĐIỂM MỚI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XII
ThS. Hồ Thị Lý
Giảng viên
khoa Nhà nước và pháp luật
Ai sinh ra trên thế giới đều được
hưởng món quà của tạo hóa đó là
quyền con người. Tư tưởng này được thể hiện trong bản tuyên ngôn độc lập của
nước Mĩ năm 1776 đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong trong Bản tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 2/9/1945: Tất
cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Trải qua lịch sử đấu tranh giải
phóng dân tộc vô cùng gian khổ, hy sinh, nhân dân Việt Nam hiểu sâu sắc giá trị
của độc lập, tự do, khát vọng về quyền được sống, quyền mưu cầu hạnh phúc…Đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta trong suốt các thời kỳ cách
mạng đều tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Văn kiện Đại
hội XII của Đảng đã
khẳng định việc
phát triển và bảo vệ quyền con người trong thời kỳ mới. Văn kiện xác định: “Bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, theo tinh thần của
Hiến pháp năm 2013”.
Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con
người, quyền công dân, theo hướng: “Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý, phát triển xã
hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng
cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững…Phát huy nhân tố con người trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Mục tiêu tổng quát đề ra là: phát
triển kinh tế nhanh và bền vững nhằm “nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân”. Có thể nói, phát triển
kinh tế là một trong những tiền đề quan trọng nhất cho việc thực thi dân chủ và
quyền con người. Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường chính là thực hiện quyền con người
về kinh tế, văn hoá và xã hội. Do vậy, Đảng xác định đi đôi với tăng trưởng
kinh tế phải thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển nhằm đảm bảo cơ hội sống và phát triển cho người dân.
Tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng ta
nhận thấy rằng: Trong một thời kỳ dài do quá chú trọng vào tăng trưởng kinh tế
ít chú trọng đến vấn đề môi trường nên hiện tượng tài nguyên chưa được quản lý,
khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền vững; một số tài nguyên bị khai thác quá
mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt. Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi
nghiêm trọng. Chính vì thế một trong những nhiệm vụ quan trọng được Đảng ta xác
định là: “tăng cường quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng
chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu”. Rõ ràng việc chuyển
hướng phát triển kinh tế từ phát triển dựa vào khai thác tài nguyên sang mô
hình phát triển bền vững bảo vệ môi trường thể hiện rõ quan điểm của Đảng trong
việc ưu tiên bảo đảm các quyền con người.
Trong bối cảnh “tình hình thế
giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp…cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng
quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến phức tạp trên Biển Đông…”, Đảng xác định một trong
những nhiệm vụ trọng tâm là phải: “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững
môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội”. Đây là nhiệm vụ hàng
đầu để đảm bảo quyền con người trong thực tiễn. Lịch sử Việt Nam và nhiều nước
trên thế giới đã trải qua đã chứng minh, đất nước bị lệ thuộc thì người dân
không thể có tự do, các quyền con người sẽ bị chà đạp nghiêm trọng.
Như vậy, có thể thấy rằng quan
điểm của Đảng và Nhà nước thể hiện trong Văn kiện Đại hội XII đã khẳng định sự
tôn trọng và bảo vệ quyền con người thông qua việc xây dựng và không ngừng hoàn
thiện hệ thống pháp luật và thực thi biện pháp cụ thể nhằm phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội, để người dân có cuộc sống ngày càng đầy đủ về vật chất, phong
phú về tinh thần; xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo đảm
thực hiện và thúc đẩy quyền con người trên đất nước Việt Nam.
Để đảm bảo cho quyền con người
được thực thi trong thực tế thì công tác tuyên truyền giáo dục quyền con người
là ưu tiên hàng đầu trong công tác nhân quyền. Ở trường Chính trị trong cả nước
nói chung và trường Chính trị Trường Chinh Nam Định nói riêng việc quán triệt
quy định mới về quyền con người trong Văn kiện Đại hội XII vào giảng dạy chương
trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính có ý nghĩa quan trọng giúp cho
giảng viên và học viên nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề nhân quyền trong bối
cảnh toàn cầu hoá. Giảng viên cần chú trọng giới thiệu quy định mới về quyền
con người, khẳng định quan điểm của Đảng và Nhà nước về mở rộng quyền và đảm
bảo thực hiện quyền con người cho học viên đặc biệt học viên là cán bộ, công
chức trong các cơ quan công quyền. Cán bộ, công chức là những người hơn ai hết
phải hiểu rõ về các quyền con người, bởi vì họ là chủ thể chủ yếu có trách
nhiệm bảo vệ các quyền con người nhưng đồng thời cũng là chủ thể có nhiều khả
năng nhất trong việc vi phạm các quyền con người.
Trong bối cảnh của một thế giới
đa dạng hệ tư tưởng và các nền văn hoá dẫn đến có nhiều sự khác biệt về quan
điểm, về cách thức hiện thực hoá các quyền con người thì việc giáo dục quyền
con người được đề cao nhằm giúp các cấp các ngành giải quyết thoả đáng nhiều
vấn đề nhân quyền phức tạp, đồng thời nhằm nâng cao tri thức nói chung giúp
người dân có thể tự bảo vệ và thúc đẩy các quyền hiến định của mình./.
XÂY DỰNG VÀ
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM - TỪ ĐỀ CƯƠNG
VĂN HÓA
VIỆT NAM (1943) ĐẾN VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ XII (2016)
ThS. Trần
Thị Huyền Nga
Giảng viên khoa Xây dựng Đảng
Trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam luôn
được Đảng nhận thức là một mặt trận quan trọng, chính sách lớn trong chiến lược
phát triển của quốc gia dân tộc. Do hoàn cảnh lịch sử quy định, cho nên quan
điểm xây dựng, phát triển nền văn hóa, con người của Đảng cũng in đậm dấu ấn
lịch sử, thể hiện khá rõ trong nội dung nhiều văn kiện chính trị lớn.
Trong Đề cương văn hóa Việt Nam
1943, Đảng ta nêu quan niệm về văn hóa bao gồm: tư tưởng, học thuật (khoa học)
và nghệ thuật (văn học, nghệ thuật) với vai trò: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” và chỉ rõ “nền tảng kinh tế của một xã hội
và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội
kia”. Đề cương văn hóa đã
thực sự đem lại một bước tiến mới về chất so với các phương pháp tiếp cận đương
thời về văn hóa Việt Nam. Dựa vào nguyên tắc lấy hiện thực lịch sử làm tiền đề,
Đề cương văn hóa đã xác định dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa là ba
nguyên tắc vận động cho cuộc vận động văn hóa Việt Nam đương đại.
Năm 1998, trong Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII), Đảng ta tiếp tục hoàn thiện đường lối xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nếu như ở những thời kỳ
trước đó, Đảng ta nhấn mạnh phạm vi và nội hàm của văn hóa chủ yếu ở lĩnh vực
nhạy cảm, nhất là văn học, nghệ thuật (gọi tắt là văn nghệ), và đời sống văn
hóa cụ thể, thì ở Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), lần đầu tiên phạm vi và
nội hàm về văn hóa được đề cập gồm 8 lĩnh vực rộng lớn, không chỉ là văn nghệ
mà là cả việc xây dựng môi trường văn hóa, xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối
sống, phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, hệ thống thông
tin, đại chúng, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và văn hóa dân tộc thiểu
số, chính sách đối với tôn giáo, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, hoàn thiện
thể chế văn hóa. Đây cũng là văn kiện đầu tiên của Đảng thời kỳ đổi mới đề cập
đến một nhiệm vụ cụ thể hết sức quan trọng là xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Đến Nghị quyết Trung ương
9 (khóa XI), Đảng đã xác định xây dựng và phát triển văn hóa nhằm mục đích để
đưa dân tộc Việt Nam phát triển và hạnh phúc. Nghị quyết đã khẳng định xây dựng
và phát triển văn hóa phải gắn chặt với vấn đề xây dựng và phát triển con người
Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Chỉ có phát triển
bền vững mới bảo đảm cho dân tộc ta, đất nước ta giữ được độc lập, tự chủ,
không bị lệ thuộc vào nước ngoài, mới bảo đảm cho chúng ta đứng vững và tiếp
tục phát triển. Vì vậy, không thể thiếu vai trò của văn hóa, của con người với
tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực tinh thần to lớn của sự phát triển bền
vững.
Sau 18 năm từ khi Nghị
quyết Trung ương 5 khóa XIII ra đời và 2 năm triển khai Nghị quyết Trung ương 9
khóa XI, tình hình thực tiễn phát sinh nhiều vấn đề mới.
So
với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ tầm mức để tác
động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Đạo đức,
lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi
còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu,
vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi
trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với
thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia
tăng….
Vì vậy, yêu cầu tất yếu
và cấp thiết đặt ra là phải thống nhất nhận thức, đổi mới tư duy, cách làm, huy
động tối đa các nguồn lực cho phát triển văn hóa, con người đất nước ở thời kỳ
mới. Do đó, trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, một mặt Đảng ta khẳng định những
quan điểm vừa cơ bản, vừa cấp bách để tiếp tục quá trình xây dựng, phát triển
văn hóa, con người Việt Nam được đề cập trong các văn kiện và Nghị quyết trước
đây; đồng thời, có bước phát triển mới về mặt lý luận về quá trình xây dựng,
phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Tư duy lý luận mới về
xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XII
được thể hiện ở một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, kế thừa và phát triển các quan điểm trên, lần đầu tiên
trong báo cáo chính trị Đại hội XII (1-2016) đã gắn hai vấn đề văn hóa và con người
với nhau thành một mục riêng, mục VII. Xây
dựng, phát triển văn hóa và con người. Như vậy, trong văn kiện Đại hội XII,
Đảng ta đã thống nhất giữa hai mặt văn hóa và con người trong một chỉnh thể và
được diễn đạt trong một mệnh đề.
Thứ hai, vận dụng những quan điểm của Nghị quyết Trung ương 9 khóa
XI vào điều kiện, yêu cầu 5 năm tới. Văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh: phương hướng xây dựng, phát triển văn hóa,
con người Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam
phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thuấn nhuần tinh thần dân
tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học…”. Đây là đặc trưng, thuộc tính cơ bản cho cả vấn đề
văn hóa và con người. Điều đó cho thấy, tư duy lý luận mới của Đảng đã phản ánh
đúng bản chất con người cũng như bản chất văn hóa. Vấn đề văn hóa thực chất là
về con người và vấn đề con người thì kết tinh, cốt lõi nhất ở nội dung, giá trị
văn hóa.
Thứ ba, tư duy lý luận mới của Đảng thể hiện sâu sắc về mối quan hệ giữa xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện với mục tiêu của chiến lược phát
triển đất nước.
Sau 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, sự nghiệp xây
dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam có bước chuyển biến quan trọng.
Tuy nhiên, “so với những thành quả trên
lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành quả trong
lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng;”.
Vì vậy, nhằm phát huy những thành tựu và khắc phục những hạn chế, khuyết điểm
trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, Đại hội XII xác định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược
phát triển”.
Quan điểm này là sự tiếp nối tư tưởng nhất quán của Đảng, coi con người là chủ
thể và là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định sự phát triển xã hội và sự
nghiệp cách mạng Việt Nam; mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải hướng
tới mục tiêu nhân văn cao cả là vì con người.
Thứ tư, tư duy lý luận mới của Đảng còn thể hiện ở quan niệm về xây dựng và
hoàn thiện hệ giá trị nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ mới “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ
giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế. Làm cho giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi mặt
hoạt động, mọi quan hệ xã hội, thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển bền vững.”.
Quan điểm của Đảng thể hiện sự tiếp nối, khẳng định quan điểm về xây dựng mô
hình nhân cách của con người Việt Nam được xác định trong Nghị quyết
Trung ương 9 khóa XI. Theo đó, vấn đề xây dựng nhân cách con người Việt Nam
hiện nay phải hội tụ đầy đủ các đức tính: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của nhân dân; có
tình thương yêu, đoàn kết, sống có nghĩa, có tình, trung thực, thẳng thắn,
khiêm tốn, nếp sống trong sạch, lành mạnh, cầu thị tiến bộ và tinh thần trách
nhiệm cao trong đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, phản văn hóa; có kiến
thức toàn diện về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật; có
tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo, ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; quyết đoán, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm trong lời nói, việc làm của mình.
Thứ năm, trên
cơ sở 6 nhiệm vụ cơ bản đối với quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước mà Nghị quyết Trung
ương 9 khóa XI đã nêu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII đã có sự bổ sung
những vấn đề mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Nếu như ở các văn kiện trước, vấn đề “xây dựng văn hóa
trong kinh tế và chính trị” mới chỉ dừng lại ở những luận điểm chung, thì nay
vấn đề này đã được Đảng ta chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể cần phải đạt được: “Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong
Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng
để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thường xuyên quan tâm xây
dựng văn hóa trong kinh tế. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân
với ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì
sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trên cơ sở Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII, Nghị
quyết Trung ương 9 khóa XI và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII, Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Nam Định đã ra Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 09 tháng 6 năm 2016 về
“xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định”. Đây là một
trong những nhiệm vụ quan trọng được Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khẳng định:
“Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
và toàn xã hội; là cuộc vận động toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, nhằm tạo
sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ đảng viên, các
tầng lớp nhân dân, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”.
Tư duy lý luận mới của Đảng về xây dựng, phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong
Văn kiện Đại hội XII, và Nghị quyết số 07 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam
Định không chỉ đáp ứng sự đòi hỏi thực tiễn đời sống xã hội nước ta hiện nay,
mà còn là những định hướng lớn, mang tính chiến lược lâu dài xuyên suốt thời kỳ
quá độ lên CNXH ở nước ta. Vì vậy, cần có sự nghiên cứu, quán triệt sâu sắc,
làm sáng tỏ hơn nữa, góp phần thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội XII và Nghị
quyết của Đảng bộ tỉnh vào cuộc sống./.
BỔ SUNG, CẬP NHẬT QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH
CỦA ĐẢNG
VỀ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ TRONG GIẢNG DẠY
CHƯƠNG TRÌNH TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
- HÀNH CHÍNH
CN. Lê Tiến Dũng
Trưởng phòng
Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu
Với
nhiều quan điểm mới phong phú, toàn diện
và sâu sắc, Đại hội XII của Đảng xác định nội dung phát triển khoa học, công
nghệ, là cơ sở cho quá trình hoạch định chủ trương, đường lối lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo; Văn kiện Đại hội
khoa học, công nghệ được đưa thành một mục riêng (Mục VI- Phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ) mà không gộp vào với các vấn đề giáo dục đào tạo, văn
hoá, môi trường như trong các Văn kiện Đại hội trước, cho thấy tầm quan trọng
của khoa học, công nghệ và nhận thức mới của Đảng ta về phát triển khoa học,
công nghệ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Chương
trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính, nội dung quan điểm,
đường lối, chính sách về khoa học, công nghệ được đề cập trong Bài 5, phần VI
Môn học Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trong bài, kiến thức lý luận, quan điểm về vấn đề khoa học,
công nghệ được đề cập nghiên cứu chung với giáo dục và đào tạo, xác định giáo
dục đào tạo, khoa học và công nghệ đều là quốc sách hàng đầu phù hợp với tinh
thần quy định trong các văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng.
Quán
triệt tư tưởng và để thể hiện nhận thức mới của Đảng tại Đại hội XII của Đảng
trong đánh giá tầm quan trọng của khoa học, công nghệ, phát triển khoa học,
công nghệ trong giai đoạn phát triển mới việc cần thiết phải thay đổi kết cấu
nội dung, cập nhật các quan điểm mới của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ
trong chương trình đào tạo là yêu cầu có tính nguyên tắc trong giảng dạy tại
nhà trường:
Thứ nhất, về
kết cấu bài giảng, cần tách riêng nội dung quan điểm chính sách của Đảng và Nhà
nước về khoa học, công nghệ thành một bài riêng, độc lập trong chương trình để
khẳng định nhận thức mới của Đảng và tầm quan trọng của vấn đề này. Đây là sự
vận dụng để thay đổi kết cấu bài giảng.
Thứ hai, cần
cập nhật kịp thời tư tưởng, quan điểm mới của Đại hội XII của Đảng về khoa học,
công nghệ trong bài giảng; cụ thể là:
Xác định làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn hình thành
tư duy mới của Đảng về khoa học, công
nghệ theo quan điểm mới của Đại hội XII của Đảng. Đại hội đã có nhiều đánh giá,
nhận định quan trọng đó là Khoa học,
công nghệ ở nước ta chưa tương xứng, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới; Cách mạng khoa học, công nghệ đòi hỏi phải đổi mới; Phát triển khoa
học, công nghệ là tất yếu để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Bổ sung những điểm mới về vị trí, vai trò của khoa
học, công nghệ tại Đại hội XII của Đảng vào giảng dạy.
Văn
kiện Đại hội thay thế cụm từ “khoa học và công nghệ” bằng “khoa học, công
nghệ”, đây không đơn thuần là diễn đạt mà cho thấy tư duy của Đảng xác định
khoa học, công nghệ có quan hệ chặt chẽ, thâm nhập vào nhau và không tách bạch giữa “khoa học” và “công
nghệ”.
Đại
hội XII của Đảng xác định: “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho
khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng
nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi
trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh..”. Khẳng định: “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách
hàng đầu”, “thực sự” (thật sự) việc thêm hai chữ “thực sự” trước “là quốc sách hàng đầu”, nhấn mạnh sự cần thiết phát triển khoa học,
công nghệ, đặt yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ của đất nước lên tầm cao
mới, khắc phục những yếu kém trong thời gian qua; coi đây là công việc trọng
yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. “Khoa học, công nghệ
thực sự là quốc sách hàng đầu” còn có nghĩa là mọi chủ trương, chính sách phát
triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội cũng như bảo vệ Tổ quốc đều phải
dựa vào khoa học, công nghệ và thực hiện bằng khoa học, công nghệ; khoa học,
công nghệ phải đứng hàng thứ nhất và đi trước một bước trong mọi chính sách
phát triển của Đảng và Nhà nước.
Đại
hội tiếp tục khẳng định: “khoa học và công nghệ là động lực quan trọng nhất để
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại”. Trong nhiều nhân tố tạo thành động lực
trong quá trình đổi mới và hội nhập, khoa học, công nghệ là động lực quan trọng
nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại và “Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trong giai đoạn tới… lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực
chất lượng cao làm động lực chủ yếu”.
Đây là
sự đánh giá đúng đắn, khách quan, khoa học vai trò của khoa học, công nghệ trên
quan điểm, lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng ta. Từ đó có đánh giá và xác định chính sách đầu tư, phát huy tác động
của KHCN hiệu quả. Đảng đã khẳng định vai trò to lớn của khoa học, công nghệ
trong phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức tổ chức, quản lý, phân
công lao động xã hội và tăng năng suất lao động.
Văn kiện Đại hội cũng xác định cụ thể: “Xây dựng chiến lược phát triển công
nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao
công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta”. Trong bối
cảnh quốc tế cạnh tranh gay gắt, công nghệ chính là công cụ chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội nhanh chóng và bền vững, bí quyết để phát triển và khẳng
định vị thế trên trường quốc tế; đây là định hướng phát triển lớn và mới về
phát triển công nghệ của đất nước trong thời gian tới; lần đầu tiên tại Đại hội
đề ra chủ trương xây dựng chiến lược phát triển công nghệ quốc gia, chiến lược
được xây dựng và triển khai sẽ tạo động lực kích thích quá trình đổi mới công
nghệ hiện nay; các định hướng cho các chương trình trọng điểm về công nghệ
thông tin, sinh học, tự động hoá… sẽ góp phần nâng cao năng lực nội sinh công
nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế.
Bổ sung quan điểm Đại hội XII của Đảng về phát triển
khoa học, công nghệ trong giai đoạn tới.
Trong
chương trình hiện nay, phần nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ giáo trình
đã ghi nhận 3 nội dung nhiệm vụ cơ bản; cần bổ sung những tư tưởng, nhiệm vụ
mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng XII đó là:
Đổi mới tư duy, tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước đối với phát triển khoa học, công nghệ; đổi mới cơ
chế quản lý khoa học, công nghệ; đổi mới và phát triển thị trường khoa học,
công nghệ; phát triển và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ
và xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, đẩy mạnh hội nhập
quốc tế về khoa học, công nghệ.
Nghiên
cứu, vận dụng Nghị quyết sát hợp với chức năng, nhiệm vụ, điều kiện cụ thể của
từng tổ chức trong hệ thống chính trị là nhiệm vụ chính trị chung của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nắm bắt, tận dụng những thành tựu của cách mạng
khoa học, công nghệ hiện đại để đi tắt, đón đầu, phát triển khoa học, công nghệ
hiện đại, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và khoảng cách phát
triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và là yêu cầu bắt buộc trong truyền
đạt quan điểm, đường lối của Đảng đối với cán bộ, đảng viên trong đào tạo của
nhà trường hiện nay.
Từ
những nhận thức trên, liên hệ trách nhiệm của cán bộ, giảng viên, nhân viên
trường Chính trị Trường Chinh trước hết cần quán triệt sâu sắc tư tưởng, quan
điểm đổi mới của Đảng và vận dụng sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ chính trị
của mình. Một mặt cần khai thác và sử dụng hiệu quả ứng dụng khoa học, công
nghệ trong nhà trường; Mặt khác cần tiếp tục tham mưu, tranh thủ các lợi thế so
sánh để huy động, tăng cường đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý,
giảng dạy, học tập. Cán bộ, giảng viên, nhân viên, học viên cần tăng cường nhận
thức, ứng dụng khoa học, công nghệ vào công tác quản lý, giảng dạy và học tập,
công tác; tăng cường hiệu quả ứng dụng khoa học, công nghệ đổi mới phương pháp
làm việc, phương pháp giảng dạy, học tập nhằm nâng cao chất lượng đào tạo bồi
dưỡng cán bộ của nhà trường là hành động thiết thực nhất để quán triệt và thực
hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về khoa học, công nghệ ./.
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA NGHỊ
QUYẾT ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG VẬN DỤNG
VÀO GIẢNG DẠY TẠI KHOA
LÝ LUẬN MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH TỈNH NAM ĐỊNH
TS. Vũ Ngọc Hoàng
Trưởng khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Sau khi được tham gia tiếp thu những nội dung cơ bản
của nghị quyết Đại hội XII của Đảng, khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đã chủ động triển khai nhiều hoạt động nghiên cứu, quán triệt và đưa Nghị
quyết Đại hội vào giảng dạy và đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng.
Để nội dung cơ bản của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng được chuyển
tải tới học viên một cách kịp thời, hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
- là một trong những khoa chịu trách nhiệm chính về giảng dạy nội dung này của
nhà trường. Chi bộ khoa đã quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 01-CT/TW ngày
22-3-2016 của Bộ Chính trị khoá XII, Hướng dẫn số 04-HD/BTGTW và kế hoạch tổ
chức học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết của Tỉnh uỷ Nam Định
lần thứ XIX cùng với triển khai Nghị quyết số 06-NQ/ĐU ngày 24-3-2016 của Đảng ủy trường Chính trị Trường Chinh về nâng cao chất lượng giảng dạy các chương trình đào tạo,
bồi dưỡng tại trường Chính trị Trường Chinh. Chi bộ khoa đã chỉ đạo giảng viên chủ động tiếp cận những nội dung
cốt lõi, những điểm mới trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, trên cơ sở đó
vận dụng vào giảng dạy các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà
khoa đảm nhận.
Những quan điểm cơ bản, cốt lõi,
phát triển trong Nghị quyết Đại hội XII là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng,
toàn dân, từ kinh nghiệm, từ thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, mà trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển
năm 2011)”; Bài học kinh nghiệm qua 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới của
Đảng… Do đó, trong quán triệt và vận dụng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào
giảng dạy, cán bộ, giảng viên của Khoa rất chú trọng tính linh hoạt, sáng tạo
và thực tiễn. Những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu phấn đấu từ nay
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; nhiệm vụ “Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại”; thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”… đã được giảng viên đưa ngay vào giảng
dạy các môn. Vận dụng phương pháp luận Triết học Mác - Lênin trong xây dựng chủ
trương, đường lối; vận dụng Kinh tế chính trị Mác - Lênin vào quá trình xây
dựng và quản lý kinh tế ở Việt Nam; vận dụng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…
Những điểm mới trong văn kiện Đại hội XII của Đảng
liên quan trực tiếp đến những bộ môn mà khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
giảng dạy bao gồm:
Một là, chủ trương lớn, quan
trọng, được nêu ra từ Đại hội XII của Đảng. Trong thời gian tới là
tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; hoàn thiện thể
chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
hướng kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát
triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở
nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và
sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ
động hội nhập quốc tế phát triển nhanh và bền vững (hướng tới các mục tiêu phát
triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp quốc). Đổi mới mô hình tăng trưởng
chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng
thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Động lực quan
trọng nhất và cũng là điều kiện để đổi mới mô hình tăng trưởng là đẩy mạnh
nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo.
Hai là, tập trung xây dựng
nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn trung, dài
hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn; phát triển có chọn lọc một số ngành công
nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công
nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hoá chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp,
công nghiệp quốc phòng, an ninh. Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn
gắn với xây dựng nông thôn mới; xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an
toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu; có chính
sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất. Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch
vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và
cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế. Tập trung phát triển một số
ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao. Từng bước
hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với
môi trường. Đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tiếp tục
tập trung đầu tư hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối
đồng bộ với một số công trình hiện đại.
Ba là, thống nhất nhận thức
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh
tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản
lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, nhằm mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật;
thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn
lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực
nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế
thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng
các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều
tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Bốn là, tiếp
tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân. Dân chủ
phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những
quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân.
Thể chế hoá và nâng cao chất
lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Hoàn thiện
hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa
vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Tiếp tục thực hiện tốt dân
chủ ở cơ sở; thể chế hoá và thực hiện tốt phương châm "Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
Với
những giải pháp đồng bộ và sáng tạo, các nội dung Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng đã thấm nhuần và đang được vận dụng khá hiệu quả trong các hoạt động
nghiên cứu, học tập, rèn luyện, công tác của giảng viên, học viên; góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường./.
NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ DÂN CHỦ TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG
ThS. Trần Thị Thu
Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Tại Đại hội XI của Đảng (1/2011) khẳng
định dân chủ là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đất nước.
Trên tinh thần đó Đảng và Nhà nước
tiếp tục ban hành nhiều chủ trương chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua quyền
làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính
trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp
xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng và thực hiện các loại ý kiến khác nhau, coi trọng
chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các
điều ước quốc tế về quyền con người.
Tuy nhiên, nhận
thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế.
Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn
tồn tại ở nhiều nơi. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn
bị vi phạm.
Để phát huy
những thành tựu đạt được và khắc phục những hạn chế của việc phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng ta đã đưa ra những điểm mới trong
việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Lần đầu tiên,
phát huy dân chủ XHCN được Đảng ta khẳng định là một trong những thành tố hợp
thành chủ đề Đại hội: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định;
phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Đây là thành tố được xếp ở vị trí quan trọng thứ hai trong chủ đề. Điều này thể
hiện vị trí quan trọng của dân chủ trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo
của Đảng trong thời kỳ đổi mới, “phát huy dân chủ” là thành tố hiện hữu, xuyên
suốt toàn bộ nội dung báo cáo chính trị.
Cùng với chủ đề
của Đại hội, vấn đề dân chủ được trình bày thành một mục độc lập trong phần
XIII của Báo cáo chính trị với tiêu đề: “Phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân” chứ không gắn với nội dung phát huy sức mạnh
đại đoàn kết như Đại hội XI. Điểm mới này cho thấy vấn đề dân chủ trở nên cấp
thiết, then chốt cần được quan tâm trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
trong những năm tới của nước ta.
Tiếp đó Đảng ta
đưa ra nội dung cơ bản của việc phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Trong văn
kiện ghi: “dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá
trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ
nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát thực hiện”. Như
vậy, văn kiện lần này nhấn mạnh việc bảo đảm quyền làm chủ cho nhân dân là rất
cần thiết để phát huy quyền làm chủ cho người dân. Người dân phải được tham gia
bàn bạc, phải được quyết định trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và phải được kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ
trương, chính sách ấy. Bởi vì thực tế hiện nay một số nơi việc thực hiện dân
chủ còn nhiều vi phạm như việc lấy phiếu tín nhiệm còn mang tính hình thức,
việc giải quyết các vấn đề liên quan đến khiếu kiện của người dân còn chưa
triệt để...
Để thực hiện và
phát huy đầy đủ dân chủ thì Đảng ta đã chỉ rõ là phải gắn liền với việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật đây được coi là điều kiện cơ bản nhất bởi vì một trong
những nguyên nhân của việc quyền làm chủ của người dân chưa được phát huy đó là
“Hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và các điều kiện thực thi dân
chủ, quyền làm chủ của nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ” vì vậy
để khắc phục nguyên nhân đó cần phải “tập trung xây dựng những văn bản pháp
luật có liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”.
Một trong những
biện pháp để có thể hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm phát huy dân chủ mà Đảng
ta chỉ ra đó là thông qua “thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức
thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền
với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội”, “thể
chế hóa và thực hiện tốt phương châm: “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”.
Đảng ta còn
khẳng định “để thực hiện dân chủ trong xã hội phải bảo đảm để phát huy đầy đủ
dân chủ trong xã hội, trước hết phải đảm bảo phát huy dân chủ trong Đảng là hạt
nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội”. Bởi,
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, vừa là thành viên, vừa là người lãnh
đạo hệ thống chính trị thực hành dân chủ trong xã hội. Vì vậy, vai trò “hạt
nhân” của Đảng được thể hiện rất rõ trong đời sống xã hội. Thực hành dân chủ
rộng rãi trong Đảng sẽ tạo điều kiện, là hình mẫu, tấm gương để cán bộ, đảng
viên vận dụng, thực hành ở từng cơ quan, đơn vị, tổ chức, có ý nghĩa quyết định
đến việc thực hiện và phát huy dân chủ trong xã hội. Đồng thời, góp phần khắc
phục bệnh: thủ cựu, độc đoán, chuyên quyền, tự do vô kỷ luật..., đang “ăn sâu,
bám rễ” làm suy thoái một bộ phận cán bộ, đảng viên, ảnh hưởng đến uy tín của
Đảng. Vì thế phải nâng cao hơn nữa nhiệm vụ xây dựng Đảng, để Đảng thực sự vững
mạnh về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, ngang tầm với yêu cầu và nhiệm
vụ trong tình hình mới.
Như vậy, qua Văn
kiện Đại hội XII chúng ta thấy, nhận thức của Đảng về dân chủ ngày càng sâu sắc
và đầy đủ đặc biệt là việc phát huy dân chủ trong toàn xã hội; là sự tiếp thu
có chọn lọc và phát triển những tinh hoa giá trị tư tưởng của nhân loại, của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thành tựu của hơn 70 năm cách
mạng Việt Nam, 30 năm đổi mới xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa, vận dụng sáng
tạo vào điều kiện thực tiễn của đất nước. Phát huy tốt dân chủ xã hội chủ
nghĩa, khơi dậy được sức mạnh tiềm tàng và vô tận trong dân, chúng ta nhất định
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa./.
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN
THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ XII
ThS. Nguyễn Thị Thu Hường
Trưởng
khoa Nhà nước và pháp luật
Vận dụng
Nghị quyết của Đảng vào giảng dạy lý luận chính trị là một yêu cầu, một đòi hỏi
tất yếu đối với giảng viên các trường chính trị. Tuy nhiên, làm thế nào để vận
dụng Nghị quyết vào công tác giảng dạy một cách hiệu quả, không mang tính hình
thức là vấn đề mà người giảng dạy lý luận chính trị phải trăn trở.
Là giảng
viên của trường Chính trị Trường Chinh, là giảng viên của khoa Nhà nước và pháp
luật - một trong 4 khoa chuyên môn của nhà trường được phân công giảng dạy nhiều chương trình đào tạo,
bồi dưỡng khác nhau. Trong các chương trình mà khoa đảm nhiệm đều có những nội
dung liên quan đến việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Vận dụng
Nghị quyết của Đảng đặc biệt là Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng vào
truyền tải nội dung “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân” theo tinh thần trên là nhiệm vụ đặt ra đối với mỗi
cán bộ, giảng viên của khoa.
Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải phát
huy dân chủ, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Xây
dựng một nhà nước kiểu mới, một nhà nước dân chủ là quan điểm, là tư tưởng chỉ
đạo, xuyên suốt quá trình Đảng lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng. Từ khi thành
lập, khi giành được chính quyền và suốt quá trình lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện
nhà nước, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu xây dựng một nhà nước thực sự của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Ngay từ khi thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói: “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.
Quan điểm về dân chủ của Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã được thể hiện thông qua việc
tổ chức và xây dựng nhà nước trong mấy chục năm qua. Tư tưởng ấy một lần nữa
được nhắc lại và khẳng định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng: “Tiếp tục phát huy dân chủ XHCN,
bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.
Trong thực tế, để phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân, Đảng ta đã không ngừng chăm lo mọi mặt đời sống của Nhân dân. Người dân
chỉ thực sự là chủ và làm chủ khi họ có cuộc sống tự do, cơm no, áo ấm và được
học hành. Những chủ trương của Đảng về chăm lo cải thiện đời sống Nhân dân đã
được cụ thể hóa bằng các chính sách, được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật của Nhà nước. Đó chính là cơ sở pháp lý để Nhân dân thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình trong đó có quyền dân chủ. Phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân không chỉ được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật mà còn được
nhà nước tổ chức, tạo điều kiện để thực hiện trên thực tế. Nhân dân tích cực đi
bỏ phiếu bầu cử để chọn người có đức, có tài tham gia công việc quốc gia, Nhân
dân trao cho nhà nước quyền lực để quản lý xã hội chính là Nhân dân đã phát huy
quyền làm chủ của mình. Nhà nước chỉ là người đại diện cho Nhân dân để thực
hiện quyền lực đó. Dân chủ là một quyền thiêng liêng của con người, là bản chất
của chế độ của nhà nước ta. Do đó, Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm, tạo điều kiện để Nhân dân phát huy quyền làm chủ trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt tích cực tham gia xây dựng nhà nước. Như
vậy, học viên vừa tiếp thu được kiến thức một cách khoa học vừa hiểu rõ bản
chất của vấn đề theo đúng tinh thần, chủ trương, đường lối của Đảng. Đó chính
là vận dụng Nghị quyết của Đảng vào giảng dạy.
Đẩy mạnh
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những hiện tượng tiêu cực khác trong
bộ máy nhà nước là một trong những phương hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bằng
lý luận và thực tiễn giảng viên giúp cho học viên hiểu nhà nước là một hiện
tượng xã hội. Cũng giống như các sự vật, hiện tượng khác, nhà nước muốn tồn tại
và phát triển cần phải phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm, yếu
kém. Các nhà nước trên thế giới, dù ở các mức độ khác nhau, đều ít nhiều có tồn
tại, yếu kém đó là tệ quan liêu, tham nhũng…trong bộ máy nhà nước.
Muốn xây
dựng một nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân, bên cạnh việc phát huy bản chất tốt đẹp, những yếu tố tích cực, cần chú ý
khắc phục những hạn chế vốn có của nhà nước đó chính là vấn đề quan liêu, tham
nhũng. Quan liêu, tham nhũng xuất phát từ sự tham lam, ích kỷ của mỗi con
người, cái mà sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là “chủ nghĩa cá nhân”.
Để thủ
tiêu quan liêu, tham nhũng, chống lại chủ nghĩa cá nhân, sinh thời Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhiều lần nói và viết để nhắc nhở cán bộ đảng viên vấn đề này.
Người đã viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân”, chỉ ra những nguy cơ của chủ nghĩa cá nhân và những biện pháp khắc phục
nó. Để chống lại quan liêu, tham nhũng, những cán bộ công chức trong bộ máy nhà
nước phải thực sự là công bộc, người đày tớ trung thành của Nhân dân. Cán bộ,
công chức phải gương mẫu thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Trong
suốt quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng nhà nước, đảng ta luôn chú trọng
đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, có đủ trình độ, năng
lực phẩm chất để tham gia nắm giữ những cương vị quan trọng trong bộ máy nhà
nước. Mấy chục năm qua đội ngũ ấy đã không phụ niềm tin của Đảng và Nhân dân,
ra sức rèn luyện, phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhân dân giao cho.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả to lớn đó thì tệ quan liêu, tham nhũng cũng
nảy sinh và ngày càng tinh vi. Phát huy bản chất tốt đẹp của một đảng Nhân dân
cách mạng, Đảng ta đã không ngừng đấu tranh chống lại những hiện tượng quan
liêu, tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên đang có những biểu hiện tha
hóa, biến chất làm mất niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, có nguy cơ đe dọa
đến sự tồn vong của chế độ, của đất nước. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ tư khóa XI đã thể hiện quyết tâm của toàn Đảng trên mặt
trận chống quan liêu, tham nhũng. Quyết tâm chống quan liêu, tham nhũng của Đảng
thời gian qua không chỉ thể hiện qua các Nghị quyết, Chỉ thị mà còn được thể
hiện bằng những việc làm cụ thể. Phong trào thi đua học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh đã được toàn đảng, toàn dân tham gia sôi nổi, tích
cực và thu được nhiều kết quả. Chống quan liêu, tham nhũng không còn là chuyện
của riêng ai, mà là việc của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị.
Hiểu rõ tầm quan trọng của công tác phòng
chống quan liêu, tham nhũng, Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định một trong
sáu nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII là:“Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu”.
Trong quá trình giảng bài giảng viên luôn chú ý vận dụng quan điểm của Đảng để
làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan. Đó chính là quá trình tuyên truyền và
thực hiện Nghị quyết, đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Vận dụng Nghị quyết của Đảng vào giảng dạy
là một việc làm vô cùng quan trọng đối với giảng viên các trường chính trị.
Những vấn đề vừa được trình bày trên đây chỉ là suy nghĩ cá nhân, rất mong nhận
được sự quan tâm, góp ý của các đồng chí, đồng nghiệp để cùng nhau làm tốt hơn
nữa công việc vẻ vang mà Đảng và Nhân dân giao cho./.
TRÁCH NHIỆM CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CHÍNH
TRỊ
TRƯỜNG CHINH ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỈNH NAM ĐỊNH GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
ThS. Cao Thị Hà
Phó
Trưởng khoa Nhà nước và pháp luật
Đội ngũ cán bộ, công chức là một bộ phận quan trọng thực thi các chức năng, nhiệm vụ nhà
nước. Uy tín của nhà nước được thể hiện, niềm tin của nhân dân được khẳng định
bằng chính kết quả làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức. Chất lượng, hiệu quả
làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức được đánh giá thông qua một số yếu tố cơ
bản như năng lực, phẩm chất, ý thức tổ chức kỷ luật…
Trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Nam Định cơ bản
được đánh giá hoàn thành nhiệm vụ. Năm 2015, qua Báo cáo đánh giá,
phân loại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của UBND tỉnh Nam Định trong
tổng số 34.070 cán bộ, công chức, viên chức toàn tỉnh, có 8.079=23,7% xếp loại
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; 22.701=66,7% Hoàn thành tốt nhiệm vụ; 3.236=9,4%
Hoàn thành tốt nhưng còn hạn chế về năng lực; chỉ có 54=0,2% Không hoàn thành
nhiệm vụ. Bên cạnh những kết quả đạt được, một bộ phận không nhỏ cán bộ,
công chức chưa thực sự nhận thức đầy đủ về vai trò của mình trong thực thi công
vụ, chưa thực sự thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm là “công bộc” của
nhân dân.
Nghị quyết số 09-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020 ban hành ngày 20/10/2016 về "nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp từ năm 2016 đến 2020 và những năm tiếp
theo" có ghi nhận: "cán bộ có bản lĩnh vững vàng, phẩm chất đạo
đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh; ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần
trách nhiệm cao, tích cực đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo, tự giác rèn
luyện nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
của tỉnh, của địa phương, cơ quan, đơn vị". Bên cạnh đó, Nghị quyết
cũng chỉ ra: "Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa tâm huyết với công
việc, năng lực chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, vai trò trách
nhiệm chưa cao, ngại va chạm, thụ động, ỷ lại, sa sút về phẩm chất đạo đức lối
sống, còn gây phiền hà sách nhiễu khi thực hiện nhiệm vụ...".
Nghị quyết số 05-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020 ban hành ngày 9/6/2016 về "Đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, xúc tiến và thu hút đầu tư giai đoạn
2016-2020" có đánh giá: "Một số lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên
chức còn thiếu trách nhiệm trong thực thi công vụ, gây phiền hà, nhũng nhiễu
đối với nhà đầu tư, doanh nghiệp nhưng chưa có trường hợp nào bị xử lý".
Trước đòi
hỏi của yêu cầu nhiệm vụ được đặt ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII, Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX (nhiệm kỳ 2015-2020), cần phải
có giải pháp hữu hiệu khắc phục một số tồn tại đối với đội ngũ cán bộ, công
chức tỉnh Nam Định hiện nay.
Trường
Chính trị cấp tỉnh nói chung trong
đó có trường Chính trị Trường Chinh được giao nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức cho đội ngũ cán bộ, công chức trong tỉnh. Nhà trường xác định trách nhiệm
góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh, khắc phục một số hạn chế nêu
trên.
Ban Chấp
hành Đảng bộ Nhà trường quan tâm chỉ đạo sát sao để nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giảng viên. “Tiếp tục đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán
bộ lãnh đạo, quản lý” theo tinh thần Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ
Chính trị ban hành ngày 26-5-2014, Đảng bộ nhà trường đã xây dựng Nghị quyết số
06 - NQ/ĐU ngày 24/3/2016 về tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng tại trường Chính trị Trường Chinh. Mục tiêu trong thời
gian tới của nhà trường là: “xây dựng đội
ngũ giảng viên đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, đạt
chuẩn về trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, phẩm chất chính trị
và đạo đức nghề nghiệp”.
Thực hiện sự chỉ đạo
trên, mỗi giảng viên nhà trường luôn tự nhận thức đầy đủ nhiệm vụ của mình,
không ngừng hoàn thiện và nâng chuẩn nghề nghiệp của mình để trang bị toàn diện hơn những kiến thức cơ
bản, kiến thức chuyên ngành chuyên sâu, kiến thức thực tiễn và cả kiến thức
liên ngành đủ tầm luận giải được những vấn đề lý luận và thực tiễn đang diễn ra
rất phức tạp, khó đoán định. Với kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp, mỗi giảng
viên không ngừng tư duy về những kiến thức mới, về cách giảng giải vấn đề gắn
lý luận với hoạt động quản lý, với thực tiễn đời sống chính trị - xã hội. Trong
mỗi bài giảng, với căn cứ lập luận chắc chắn, các giảng viên thuyết phục học
viên để họ nhận thức về vị trí người cán bộ, công chức, quy trình thực thi
nhiệm vụ, trách nhiệm triển khai thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước được đặt ra trong mỗi giai đoạn. Mọi biểu hiện
về năng lực hạn chế, sa sút phẩm chất đạo đức, thiếu ý thức kỷ luật và một số biểu hiện tham
nhũng, lãng phí, dẫn đến nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được Đảng ta
nhận định đều xuất phát từ nguyên nhân căn bản là số cán bộ, công chức được bổ
nhiệm, tuyển dụng chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò và thẩm quyền được
phân giao. Qua các bài giảng có nội dung liên quan đến triết học Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống chính trị, nhà nước, pháp luật và quản lý hành
chính nhà nước, học viên hiểu bản chất của việc giao quyền thực thi công vụ.
Mỗi cán bộ, công chức chính là những “công bộc” được nhân dân ủy quyền trao cho
nên phải có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, thay mặt cho nhân dân điều hành
quản lý hiệu quả các công việc chung, không ngừng nâng cao đời sống vật chất
tinh thần cho nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân
trong cơ chế nhà nước mà tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Qua các khóa học của nhà
trường, được trang bị bổ sung một số kỹ năng lãnh đạo quản lý, nghiệp vụ công
tác đảng, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể khi thực hiện công vụ, là những người
thừa hành công vụ, mỗi cán bộ, công chức nhận thức rõ trách nhiệm phải tích cực
tham gia thực hiện cam kết xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng Quốc
hội hành động; Chính phủ và hệ thống chính quyền địa phương kiến tạo, liêm
chính và phục vụ; cơ quan tư pháp đủ mạnh để bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật;
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tích cực tham gia vào hoạt động của
Đảng, chính quyền, thực hiện hiệu quả chức năng giám sát và phản biện xã hội.
Giảng viên
rất cần có tình yêu và tâm huyết với nghề, có đạo đức nghề nghiệp, có bản lĩnh
chính trị vững vàng và kiên quyết đấu tranh, phê phán những quan điểm sai trái,
phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng. Mỗi
giảng viên chính là tấm gương về nhân cách, đạo đức, về phong cách đĩnh đạc,
lịch sự; về ý thức kỷ luật khi tuân thủ nghiêm chỉnh thời gian lên lớp, sử dụng
tối đa hiệu quả thời gian dành cho mỗi bài giảng; có cách ứng xử văn hóa,
nghiêm túc nhưng không quá khắt khe, dân chủ, gần gũi nhưng không quá dễ dãi.
Đó chính là việc “dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Với nhiệt huyết nghiên
cứu, niềm say mê trong mỗi bài giảng của giảng viên sẽ lan tỏa đến người học.
Vốn nhạy cảm, các học viên sẽ cảm nhận được để xây dựng, củng cố thêm tình yêu
và trách nhiệm với công việc của họ. Đây là hành trang lý luận quan trọng để
các học viên vận dụng trong xử lý công việc tại cơ quan, đơn vị.
Nhà trường
cần tạo một môi trường học tập dân chủ, lấy người học làm trung tâm và tuân thủ
nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong đào tạo. Tuyển sinh đúng tiêu chuẩn; quản sinh
đúng quy chế; tổ chức thi, đánh giá, xếp loại đúng năng lực học viên. Đó chính
là tạo thói quen trong tuân thủ kỷ luật công vụ tại cơ quan, đơn vị.
Những tồn
tại trong đội ngũ cán bộ, công chức nói chung trong đó có đội ngũ cán bộ, công
chức tỉnh Nam Định đã được nhận diện và hiện vẫn đang trong quá trình khắc
phục. Cả hệ thống chính trị vào cuộc, chủ thể quản lý cán bộ, công chức có
trách nhiệm trực tiếp. Trong đó có trách nhiệm của trường Chính trị. Nhà trường
hướng tới xây dựng hình mẫu trường chuẩn trong quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức. Mỗi giảng viên trường Chính trị Trường Chinh đang không ngừng cố
gắng hoàn thiện và nâng chuẩn nghề nghiệp của mình, bằng hệ thống tri thức
chuyên sâu, liên ngành, bằng phương pháp giảng dạy thường xuyên được đổi mới,
bằng sự gương mẫu, trách nhiệm với công việc, nghiêm túc chỉ ra và gợi ý, xây
dựng giải pháp khắc phục những tồn tại trong thực thi công vụ, đang góp phần
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Nam Định đủ Tâm, Tầm, Tài, thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ được giao, xây dựng tỉnh Nam Định phát triển bền vững./.
VAI TRÒ CỦA
ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ
ThS. Đinh Thị Oanh
Phó Trưởng khoa Nhà nước và pháp luật
Giám sát là
một chức năng chủ yếu và quan trọng của Hội đồng nhân dân các cấp nói chung,
trong đó có Hội đồng nhân dân xã. Chức năng đó được thể hiện qua vai trò của
đại biểu Hội đồng nhân dân xã. Các đại biểu hội đồng nhân dân xã do cử tri của
xã bầu ra, đại diện cho cử tri của xã. Đại biểu Hội đồng nhân dân xã là người
tham gia xây dựng, đóng góp các ý kiến và thông qua các nghị quyết của Hội đồng
nhân dân xã. Với tư cách là thành viên của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng
nhân dân trong vai trò người giám sát, có nhiệm vụ đảm bảo rằng: hoạt động
của các tổ chức nhà nước, tổ chức kinh tế và công dân đúng pháp luật và bảo đảm
các chính sách, các chương trình hoặc các dịch vụ công cộng ở địa phương do hội
đồng ban hành được thực thi có hiệu quả.
Thực tế vai
trò giám sát của Đại biểu hội đồng nhân dân xã thể hiện thông qua các hoạt động
như: Chất vấn những người bị chất vấn; giám sát quyết định của Ủy ban nhân dân
xã; giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương; giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân xã phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng, hiệu quả hoạt động giám
sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân và của mỗi đại
biểu Hội đồng nhân dân. Qua thực tiễn hoạt động giám sát, nhiều đại biểu Hội đồng nhân
dân đã nêu cao tinh thần trách nhiệm là người đại diện của nhân dân, tích cực
học tập, nghiên cứu, đổi mới phương pháp làm việc, không ngừng nâng cao chất
lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Đại biểu Hội đồng
nhân dân xã đã tham gia vào việc cụ thể hóa chủ trương của cấp ủy, ra quyết
định đúng đắn về quy hoạch và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương ở từng năm, từng giai đoạn; quyết định phân bổ nguồn lực công và
nguồn lực đầu tư được huy động từ các thành phần kinh tế hợp lý, đúng quy định
của pháp luật. Qua tiếp xúc cử tri và thực tiễn hoạt động, nhiều đại biểu đã
phát hiện những vấn đề mang tính nổi cộm, bức xúc ở địa phương, từ đó có ý kiến
chất vấn với các cơ quan liên quan hoặc kiến nghị với Thường trực Hội đồng nhân
dân, các Ban của Hội đồng nhân dân để tổ chức các đoàn giám sát nhằm làm rõ
trách nhiệm và đề xuất các giải pháp khắc phục. Nhiều đại biểu đã kiên trì theo
dõi vấn đề đã chất vấn, kiến nghị thể hiện được bản lĩnh, tâm huyết trong hoạt
động dân cử. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên địa bàn
xã các đại biểu hội đồng nhân dân yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các
biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và khôi phục
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân bị vi phạm. Khi
nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân đại biểu Hội đồng nhân dân
có trách nhiệm nghiên cứu và chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
để xem xét, giải quyết, theo dõi đôn đốc việc giải quyết, đồng thời thông báo
cho người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị biết.
Bên
cạnh đó hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp ở một số lĩnh vực, nhất là công
tác giám sát chuyên đề hiệu quả còn hạn chế. Đối với Hội đồng nhân dân
xã trên thực tế: có đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động kiêm nhiệm chưa
dành thời gian thích đáng cho hoạt động của Hội đồng nhân dân. Thực tế cho thấy
trong quá trình lựa chọn, giới thiệu người ứng cử vẫn còn những hạn chế trong
việc kết hợp hài hòa giữa cơ cấu và tiêu chuẩn năng lực của đại biểu, thường
nặng về cơ cấu, thành phần nên chất lượng, trình độ năng lực và kỹ năng hoạt
động Hội đồng nhân dân của một số đại biểu còn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm
vụ của đại biểu dân cử. Trong kỳ họp Hội đồng nhân dân một số đại biểu chưa
thực sự phát huy dân chủ và trí tuệ tập thể, chưa đáp ứng được sự mong muốn của
cử tri, cá biệt có đại biểu mắc khuyết điểm vi phạm kỷ luật, để cử tri còn bức
xúc, phê bình đối với vai trò đại biểu Hội đồng nhân dân. Hoạt động tiếp xúc cử
tri còn hạn hẹp, chưa đảm bảo điều kiện để đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp xúc
cử tri tại nơi cư trú hoặc tại đơn vị địa bàn bầu cử, mới chỉ tổ chức cho đại
biểu Hội đồng nhân dân tiếp xúc với đại biểu cử tri tập trung tại Ủy ban nhân
dân xã, chính vì thế đại biểu Hội đồng nhân dân xã chưa nắm hết được tâm tư
nguyện vọng của cử tri trong toàn xã; kỹ năng gợi mở, động viên cử tri phát
biểu ý kiến, kiến nghị về những vấn đề liên quan đến nội dung chương trình kỳ
họp và kỹ năng phân tích, tổng hợp thông tin, tiếp thu và giải trình ý kiến cử
tri của một số đại biểu Hội đồng nhân dân còn hạn chế...
Hậu quả của
tình trạng trên là không ít nghị quyết được ban hành nhưng triển khai, thực
hiện gặp nhiều khó khăn, có nghị quyết không thể đi vào cuộc sống. Đối với hoạt
động giám sát, đôi lúc đại biểu chỉ có ý kiến mang tính phản ánh hiện tượng mà
chưa đi sâu phân tích nguyên nhân, chỉ ra trách nhiệm cụ thể của các cá nhân,
đơn vị nên kết luận giám sát thiếu sức thuyết phục.
Qua thực tiễn hoạt động của Hội
đồng nhân dân và Đại biểu Hội đồng nhân dân xã để nâng cao trách nhiệm giám sát
của Đại biểu Hội đồng nhân dân xã trong thời gian tới theo chúng tôi cần thực
hiện một số giải pháp như sau:
Tiếp tục đổi mới hoạt động của
hội đồng các cấp.
Tổ chức thực hiện triệt để nghiêm túc Luật tổ chức chính quyền địa
phương và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
Đại biểu Hội đồng nhân dân xã phải gắn bó với cử tri, vừa lắng nghe và
phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri, vừa giám sát, vừa tác động
và đôn đốc các cơ quan có thẩm quyền giải quyết thoả đáng các ý kiến, nguyện
vọng của cử tri. Hội đồng nhân dân phải có trách nhiệm nâng cao năng lực và
trách nhiệm cho đại biểu Hội đồng nhân dân như tổ chức các lớp tập huấn, bồi
dưỡng cho đại biểu kỹ năng tự giám sát và tham gia Đoàn giám sát; xác định cách
tiếp cận để nghiên cứu vấn đề cần giám sát; kinh nghiệm nêu vấn đề, đặt câu hỏi
hợp lý với cơ quan hữu quan để làm rõ các nội dung cần xem xét; thảo luận và đi
đến kết luận giám sát; xây dựng kiến nghị giám sát và theo dõi kết quả thực hiện
yêu cầu của Đoàn giám sát.
Tuy nhiên, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, đại biểu Hội đồng nhân dân phải thường xuyên tham gia
các lớp tập huấn về kỹ năng giám sát và tự nghiên cứu, nâng cao nhận thức, hiểu
biết đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân; năng động sáng tạo trong
thực hiện quy định của pháp luật, trong hoạt động thực tiễn. Các đại biểu hoạt
động kiêm nhiệm cũng cần phát huy tính chủ động, không chỉ hoạt động trong kỳ
họp Hội đồng nhân dân mà cả giữa hai kỳ họp, khi tiếp xúc cử tri… không thụ động chờ chỉ đạo
của Thường trực, các ban Hội đồng nhân dân. Từng đại biểu phải tạo được sự mến mộ, tin tưởng
đối với cử tri...
Có thể nói, thông qua hoạt động giám sát
đại biểu Hội đồng nhân xã thể hiện rõ vai trò là người đại diện cho ý chí, tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân xã, đồng thời là cầu nối giữa nhân dân với chính
quyền và chính quyền với nhân dân./.
QUAN ĐIỂM VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC
LẦN THỨ XII VẬN DỤNG VÀO CÔNG TÁC GIẢNG DẠY CỦA TRƯỜNG
CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH TỈNH NAM ĐỊNH
CN. Lê Thị Thu Phượng
Giảng viên khoa Dân vận
Công tác dân vận là
nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, cả
trong thời kỳ chưa có chính quyền cũng như thời kỳ Đảng cầm quyền; là điều kiện
quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và toàn xã hội; là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với
nhân dân. Trong bài báo Dân vận, đăng trên báo Sự
thật ngày 15/10/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân vận là vận động lực lượng
của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn
dân, để thực hành những công việc nên làm và những việc mà đoàn thể Chính phủ
giao cho”. Một nội dung cốt lõi, xuyên suốt tư tưởng
dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đại đoàn kết dân tộc “Dân là quý nhất, là quan trọng
hơn hết. Dân là gốc của nước. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong
thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Đồng thời, Người nêu một luận điểm hoàn chỉnh có tính quy luật của
mọi cuộc cách mạng: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì
việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận đã trở thành
đường lối chiến lược cơ bản lâu dài, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn của
Đảng ta và nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng nói chung.
Kế thừa tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về công tác dân vận qua các thời kỳ,
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã nâng quan điểm, nội dung công tác dân vận
lên một tầm cao mới với những tư duy mới, nhận thức mới nhằm phát huy hiệu quả
công tác dân vận phù hợp, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế sâu rộng. Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng đã đề ra mục tiêu cho
công tác dân vận trong giai đoạn tới là: “Tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình
mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập
hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong
trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Tổng kết 30 năm đổi mới,
một lần nữa Đảng ta lại khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của công tác dân
vận. Công tác dân vận là một mặt công tác cơ bản của Đảng, nhân tố quan trọng
góp phần củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng “thế
trận lòng dân” vững chắc. Nhằm tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác dân vận để nhanh chóng khắc phục những hạn chế, yếu kém, tạo ra sự
chuyển biến tích cực trong công tác dân vận, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã những nhóm giải
pháp quan trọng để triển khai các nhiệm vụ công tác dân vận là:
Một
là, cần đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân
dân.
Hai
là, kịp thời thể chế hóa đường
lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, tăng cường và đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo công tác dân vận của các cơ quan nhà
nước, thực hiện tốt quy chế dân vận của hệ thống chính trị.
Ba là, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên
trách làm công tác dân vận.
Đối với tỉnh Nam Định trong
những năm qua công tác dân vận đã kịp thời nắm bắt tình hình cơ sở, tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân, từ đó tham gia giải quyết có hiệu quả những vấn đề
phức tạp, bức xúc, góp phần ổn định tình hình ngay từ cơ sở, tạo không khí dân
chủ, tin tưởng trong các tầng lớp nhân dân với Đảng. Trên cơ sở các nội dung cơ
bản của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và tình hình thực tế về công tác dân
vận của tỉnh Nam Định tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XIX đã
đề ra định hướng công tác dân vận đến năm 2020 là: “Nâng cao chất lượng công
tác dân vận, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và sự đồng
thuận xã hội”.
Cập nhật và vận dụng quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XIX
về công tác dân vận, Đảng bộ trường Chính
trị Trường Chinh nói chung và từng giảng viên nói riêng đã xác định rõ trách
nhiệm cần phải nghiên cứu và quán triệt các nội dung về công tác dân vận trong
từng bài giảng. Cụ thể cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục tuyên truyền, đẩy
mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm tuyên truyền Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI), thực hiện mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Từ đó, góp phần xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên ở cơ sở phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học
dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Thông qua công tác giảng dạy nghiệp
vụ công tác Đảng và các đoàn thể ở cơ sở, kỹ năng lãnh đạo, quản lý góp phần
thay đổi nhận thức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy mạnh mẽ
vai trò, hiệu lực của nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng phong cách làm việc của cán
bộ cơ sở khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực
tiễn, nói đi đôi với làm.
Thứ hai, nghiên cứu và cụ thể hóa
mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” nhất là nội
dung “nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” để định hướng trong thực tiễn hoạt động của học viên. Nâng cao nhận thức
để từ đó thực hiện có hiệu quả, có chất lượng công tác dân vận của các cơ quan
nhà nước, thực hiện tốt quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Cung
cấp cho học viên những nội dung trọng tâm của chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại,
chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm
xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán
bộ, công chức, đẩy nhanh việc áp dụng Chính phủ điện tử...
Thứ ba, thông qua các chương trình
đào tạo của nhà trường, cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân
vận có đủ phẩm chất, năng lực, có các kỹ năng cần thiết để thực hiện tốt và có
hiệu quả công tác dân vận.
Vận dụng và triển khai những nội dung cơ bản của công
tác dân vận trong tình hình mới mà Nghị quyết Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XIX nêu ra đòi hỏi các cấp, các ngành, mỗi tổ chức Đảng, cán bộ
đảng viên của tỉnh nói chung và trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định nói
riêng cần thực sự đổi mới, nhận thức đúng đắn, đầy đủ đồng thời phải thực hành
cụ thể, nghiêm túc, gương mẫu trong dân vận và công tác dân vận; thường xuyên
gắn lý luận với thực tiễn, nhận thức đi đôi với hành động, nói đi đôi với làm.
Có như vậy công tác dân vận của tỉnh mới đi vào chiều sâu, góp phần tạo chuyển biến toàn diện cả về nội dung và
phương thức vận động quần chúng trong thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ đó góp phần không nhỏ để xây dựng
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tăng cường sự đồng thuận xã hội, huy động
sức mạnh của các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của
địa phương./.
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TRONG VĂN KIỆN ĐẠI
HỘI XII CỦA ĐẢNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀO GIẢNG DẠY PHẦN “NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ,
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT XHCN” Ở TRƯỜNG
CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH
ThS. Trần Thị Thu Hà
Phó
Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân ở Việt Nam là quá trình lâu dài, phải được tiến hành từng
bước, chia thành nhiều giai đoạn. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân là một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan. Trải qua
các kỳ Đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan điểm về Nhà nước pháp
quyền, và Đại hội XII của Đảng - sau 30 năm đổi mới - đã đưa ra một số điểm mới
về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản
Việt Nam trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 30 năm đổi mới, Đảng
đã đặt ra mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất nước đó là: nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện
và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững, thực hiện
thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Khẳng định bước phát triển mới trong quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam
về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Đại hội XII có những điểm
mới sau đây:
Thứ nhất, trong Báo cáo chính trị tại các Đại hội trước đó, đặc biệt là Đại hội
Đảng X và Đại hội Đảng XI, chúng ta thấy, tại Đại hội Đảng XII, vấn đề xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta quan tâm sâu
sắc hơn.
Báo cáo chính trị tại Đại hội X, XI, vấn đề Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đề cập tương đối khiêm tốn chủ yếu chỉ xác
định một số phương hướng nhiệm vụ đẩy mạnh Nhà nước pháp quyền XHCN.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XII, Đảng ta cũng dành
một mục “XIV - Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
Mục này không chỉ trình bày phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà trình bày rất rõ ràng, cụ thể về
tình hình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, văn kiện Đại hội Đảng XII khẳng định “Quan điểm và thể chế về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ
bản. Nhận thức của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân có bước phát triển”.
Trong tiến trình các kỳ Đại hội Đảng, cho thấy bước
phát triển trong quan điểm và thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Như vậy, thuật ngữ Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam chính thức
được sử dụng tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994). Và
thuật ngữ này được nhắc lại trong các Đại hội sau và đặc biệt là Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng với những bổ sung, hoàn thiện đáng ghi
nhận.
Thứ ba, đánh
giá về tình hình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
Văn kiện Đại hội Đảng XII ghi nhận những kết quả đạt được: về nguyên tắc tổ
chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn;
Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động;
hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện;
Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động
giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng;
tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan bổ trợ tư
pháp tiếp tục được kiện toàn; chất lượng hoạt động có tiến bộ...
Đại hội XII cũng nghiêm túc chỉ ra những khuyết điểm,
hạn chế trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết
chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu
lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm
vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực nhà nước và
hiệu quả hoạt động của Nhà nước...
Thứ tư, từ
những đánh giá về tình hình của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chỉ ra
thành công cũng như hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân của những hạn chế,
khuyết điểm đó, Đảng ta đã đề ra những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu để tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh việc xác định rõ những giải pháp cụ thể cần
triển khai (tiếp tục xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của
đổi mới hệ thống chính trị; hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước; chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức), so với Đại hội XI, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nêu những nhiệm
vụ, giải pháp mới, nổi bật như: tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, tổ chức của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013; đẩy mạnh việc
hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của Nhà nước pháp quyền XHCN; xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp
thực thi quyền lực nhà nước; Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức
danh ở cơ sở và ở cấp huyện, mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản
lý…
Để vận dụng những nội dung
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào giảng dạy môn “Những vấn đề cơ bản về hệ
thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN”, khoa Nhà nước và pháp luật và giảng viên kiêm chức khoa của trường
Chính trị Trường Chinh đã liên tục bổ sung các nội dung mới về nhà nước pháp
quyền vào nghiên cứu và giảng dạy.
Thứ nhất về
soạn giáo án, tài liệu
Các giảng viên tích cực nghiên cứu, trao đổi, thảo
luận, cập nhật thông tin mới về chủ trương, đường lối của Đảng. Đặc biệt Nghị
quyết và Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII về xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; cập nhật những điểm mới của Hiến pháp năm
2013 về xây dựng và tổ chức các cơ quan trong bộ máy nhà nước như: Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chính quyền
địa phương; cập nhật quy định mới vài giáo án như: Luật tổ chức Quốc Hội, Luật
tổ chức Chính Phủ, Luật tổ chức chính quyền địa phương,…
Trên cơ sở đó, các giảng viên truyền tải những nội
dung về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vào biên soạn bài giảng, phục vụ
cho môn học.
Thứ hai, về
quá trình giảng dạy của giảng viên
Trong quá trình giảng dạy môn học này giảng viên đã
lồng ghép những điểm mới về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền trong
Văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước khi lý giải về bản chất của Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và đặc biệt là vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện
nay.
Cụ thể, đối với vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam: giảng viên chỉ rõ, hướng dẫn, giải thích cho học viên nắm được quan
điểm của Đảng về tình hình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay; đặc điểm của nhà nước pháp quyền Việt Nam; nguyên tắc xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam; nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam và
phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, về
quá trình học tập của học viên
Phát huy tính tích cực của học viên trong quá trình
học tập và nghiên cứu, giảng viên hướng dẫn học viên tự đọc, tự tìm hiểu một số
nội dung về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và nội dung về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước tại Hiến pháp 2013.
Trong quá trình học tập trên lớp, giảng viên tiến hành
trao đổi, hướng dẫn học viên thảo luận nhóm về các nội dung liên quan đến xây
dựng, tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Đồng thời, định hướng để học viên
tự trao đổi vấn đề thực tế về xây dựng, tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
hiện nay.
Qua quá trình tự nghiên cứu, tìm hiểu trên cơ sở định
hướng của giảng viên và quá trình học viên nghe giảng, làm việc trên lớp, học
viên sẽ nắm được những vấn đề cơ bản nhất về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và nắm bắt những thực tiễn trong tổ chức bộ máy nhà nước địa
phương trong quá trình quản lý cũng như chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất
kiến nghị, giải pháp giải quyết./.
MỘT SỐ TỒN TẠI CỦA VĂN PHONG
NGÔN NGỮ
TRONG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TỈNH NAM ĐỊNH QUA KHẢO SÁT
THỰC TẾ
CN. Mai Thị Thanh Hương
Giảng viên khoa Dân Vận
Trong soạn thảo và ban
hành văn bản QPPL của chính quyền cấp xã, văn phong ngôn ngữ có vai trò hết sức
quan trọng. Nó là yếu tố quyết định để nội dung văn bản được hiểu theo một
nghĩa thống nhất, từ đó được thực hiện thống nhất. Văn phong ngôn ngữ giúp
chuyển tải nội dung của các quy phạm tới người thực hiện, giúp cán bộ thi hành pháp luật cũng như đối tượng chịu sự điều
chỉnh dễ dàng
hiểu và thực hiện đúng các yêu cầu của văn bản. Bên cạnh đó, cách diễn
đạt, lối hành văn cũng góp phần tạo nên tính công quyền của văn bản. Đồng thời
thể hiện trình độ, văn hóa của đơn vị soạn thảo, từ đó nâng cao chất lượng,
hiệu quả của công tác quản lý.
Theo quy định, văn bản
quản lý nhà nước (QLNN) nói chung và văn bản quy phạm pháp
luật (QPPL) nói riêng được viết theo văn phong hành chính - công vụ (còn gọi là
văn phong hành chính). Văn phong hành chính là
những phương tiện ngôn ngữ có tính khuôn mẫu, chuẩn mực được sử dụng thích hợp
trong lĩnh vực giao tiếp của hoạt động pháp luật và hành chính. Do văn bản QPPL được
viết theo văn phong hành chính - công vụ nên nó phải đảm bảo được các
yêu cầu về tính chính xác, tính phổ thông đại chúng, tính
khách quan, tính trang trọng lịch sự và tính khuôn mẫu.
Qua khảo sát
thực tế đối với những văn bản do chính quyền cấp
xã tỉnh Nam Định ban hành cho thấy: các lỗi về văn phong ngôn ngữ mà chính quyền
cấp xã tỉnh Nam
Định thường mắc phải như sau:
Thứ
nhất, vi phạm tính chính xác trong văn
bản QPPL.
Hiện nay
nhiều văn bản QPPL của chính quyền cấp xã
tỉnh Nam Định sử dụng từ đa nghĩa và sắp xếp từ không đúng
trật tự gây hiểu sai cho người tiếp nhận. Chẳng hạn: trong một
số Nghị quyết của Hội đồng nhân
dân (HĐND) xã về nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội có viết: “không
nên hút thuốc lá nơi công cộng”. Việc sử dụng từ “không nên” khi đưa ra các quy phạm mang
tính bắt buộc là không phù hợp vì dễ dẫn đến cách hiểu đa nghĩa: không nên hút
chứ không cấm hút. Hay:“Đầu tư cơ sở vật
chất phục vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện tốt nhiệm vụ của mình,
phương tiện, thiết bị làm việc”. Ở câu trên, cách hành văn lủng củng do
người viết đã sắp xếp sai trật tự từ. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng, hiệu lực hiệu quả của các quyết định quản lý.
Không những
vậy, trong nhiều văn bản còn thường xuyên sử dụng văn nói: “các vị đại biểu HĐND xã”. Việc sử dụng phong cách khẩu ngữ đã làm
giảm tính trang trọng, lịch sự của văn bản. Vì thế đòi hỏi người viết phải thận
trọng khi sử dụng các thuật ngữ trong quá trình soạn thảo văn bản.
Bên cạnh
đó, trong các văn bản QPPL của chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định, lỗi dùng từ
không đúng chính tả tiếng Việt xuất hiện khá nhiều. Chẳng hạn: “sảy ra dịch bệnh”; “thêu zen”... Thậm chí cùng một từ nhưng trong các văn bản cũng có
cách viết khác nhau: “tỷ lệ” -“tỉ lệ”…
Nguyên nhân của việc dùng từ sai chính tả có thể bắt nguồn từ lỗi phát
âm nhưng cũng có thể bắt nguồn từ lỗi đánh máy. Điều này đòi hỏi khi soạn thảo
văn bản, người viết phải luôn kiểm tra chính tả để đảm bảo tính chính xác của
ngôn ngữ.
Hiện nay
trong các văn bản QPPL của chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định vẫn chưa có sự
thống nhất về cách viết hoa. Qua khảo sát cho thấy, cách viết hoa còn tùy tiện
và thiếu chính xác. Cùng một nội
dung tương tự nhưng cách viết hoa khác nhau, thậm chí viết hoa ngẫu hứng: “Luật ngân sách Nhà nước - Luật Ngân sách
Nhà nước”... Khi người soạn thảo văn bản không thống nhất trong cách viết
hoa và viết hoa tùy tiện sẽ làm mất tính uy nghiêm của các quyết định quản lý.
Trong cách dùng câu, văn
bản QPPL của chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định hiện nay thường mắc lỗi sử dụng
dấu câu không hợp lý làm cho ngữ nghĩa của câu không rõ ràng. Một số Nghị quyết
của HĐND viết:“Kế hoạch sử dụng đất 5 năm
giai đoạn (2010 - 2015), đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt ngày 29/9/2013”.
Việc sử dụng dấu ngoặc đơn “(2010-2015)” và dấu phẩy đằng sau là sai dấu câu,
làm cho câu văn mất tính liên kết.
Mặt khác,
về nguyên tắc câu phải đủ hai thành phần chủ ngữ và vị ngữ. Câu thiếu một trong
hai thành phần chủ - vị là câu sai nhưng thực tế vẫn có những câu đặc biệt chỉ
có một thành phần. Tuy nhiên hiện nay trong văn bản QPPL của chính quyền cấp xã
tỉnh Nam Định, nhiều câu không đáp ứng được yêu cầu thông tin do thiếu chủ ngữ
hoặc vị ngữ, từ đó làm giảm hiệu quả của quá trình trao đổi thông tin. Chẳng
hạn: “Kế hoạch đảm bảo công tác ANTT -
ATGT trên địa bàn trong thời gian diễn ra Đại Hội Đảng bộ các cấp”. Câu văn
trên thiếu vị ngữ và chưa trả lời được câu hỏi: kế hoạch đảm bảo công tác ANTT-
ATGT trên địa bàn được thực hiện như thế nào? Do đó câu văn không đảm bảo yêu
cầu về cách đặt câu.
Ngoài ra trong một số văn bản còn tồn tại lỗi viết
các con số trong ngày tháng. Trong cùng một văn bản QPPL, việc viết
các con số trong ngày tháng cũng không có sự thống nhất (xét các con số dưới
hàng chục). Điều này làm ảnh hưởng đến tính chính xác của văn bản và làm giảm
chất lượng văn bản.
Thứ hai, vi phạm tính khách quan và tính trang
trọng lịch sự trong văn bản
Theo quy
định để đảm bảo yêu cầu của văn phong hành chính - công vụ, trong văn bản QPPL
chỉ sử dụng câu tường thuật. Các văn bản QPPL do chính quyền cấp xã tỉnh Nam
Định ban hành hầu như đã đảm bảo được yêu cầu này. Tuy nhiên vẫn còn một số văn
bản vi phạm, chẳng hạn: nhiều văn bản sử dụng từ: “kêu gọi”,“hãy” khiến câu
văn mang dáng dấp của câu cầu khiến. Việc sử dụng các kiểu câu khác không phải
câu tường thuật sẽ làm mất đi tính trang trọng lịch sự và tính khách quan của
văn bản QPPL.
Thứ ba, vi phạm tính phổ thông đại chúng trong văn
bản.
Trong một
số văn bản thường mắc lỗi sử dụng từ viết
tắt và không có chú giải cho từ được viết tắt. Thậm chí trong cùng một văn bản việc sử dụng từ viết tắt cũng
không thống nhất: “HĐND - Hội đồng nhân
dân”. Vi phạm lỗi này sẽ làm mất đi tính rõ ràng, nghiêm túc, tính phổ
thông đại chúng của văn bản QPPL và làm cho người đọc khó tiếp nhận văn bản.
Trong một văn bản có thể viết tắt một số từ, tuy nhiên cần có chú thích ngay ở
lần xuất hiện đầu tiên của từ đó. Tránh tình trạng viết tắt tràn lan, chỉ nên
viết tắt những từ thông dụng và có tần suất xuất hiện nhiều lần trong một văn
bản.
Thứ tư, vi phạm tính khuôn mẫu trong văn bản.
Nhiều văn
bản QPPL của chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định còn phổ biến tình trạng sử dụng
sai dấu sau căn cứ ban hành, sau tên loại quyết định và sau các tiêu đề. Chẳng
hạn: sau mỗi căn cứ phải xuống dòng và cuối dòng có dấu chấm phẩy, riêng căn cứ
cuối cùng kết thúc bằng dấu phẩy. Tuy nhiên trong nhiều văn bản, sau phần căn
cứ ban hành người viết lại sử dụng dấu chấm. Điều này làm cho các phần của văn
bản rời rạc, không thể hiện chính xác nội dung cần truyền đạt và làm vi phạm
tính khuôn mẫu của văn bản.
Trên
đây là những hạn chế về văn phong ngôn ngữ trong văn bản QPPL của chính quyền
cấp xã tỉnh Nam Định. Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau: Thiếu các quy định pháp luật hướng dẫn về sử dụng ngôn ngữ trong văn bản
QLNN nói chung và văn bản QPPL nói riêng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục
vụ công tác soạn thảo văn bản chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức của một số
cán bộ lãnh đạo, quản lý về vai trò, chức năng của văn bản QPPL chưa đầy đủ.
Cán bộ công chức cấp xã chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc soạn thảo văn bản;
công tác nghiên cứu và triển khai ứng dụng trong lĩnh vực này còn chậm, chưa
đáp ứng được đòi hỏi của thời kỳ mới. Công tác quản lý và kiểm tra văn bản còn
yếu. Năng lực cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản hạn chế trong khi đó vấn đề
đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho họ chưa được quan tâm và tài liệu hướng dẫn
chưa có sự thống nhất.
Xuất phát từ thực trạng
trên, để nâng cao hơn nữa chất lượng văn phong, ngôn ngữ trong văn bản QPPL của
chính quyền cấp xã ở Nam Định cần phải tập trung vào một số vấn đề sau: Trước
hết, cần sớm hoàn thiện các quy định pháp luật về soạn thảo và ban hành văn bản
QPPL,
trong đó quan trọng nhất là ban hành quy định về cách viết hoa trong
văn bản QPPL; cách đặt dấu câu sau các tiêu đề; cách viết tiếng nước ngoài… Thứ
hai, xây dựng và sử dụng thống nhất các văn bản mẫu vì hiện nay có rất ít văn
bản được mẫu hoá và tính thống nhất giữa các văn bản mẫu chưa cao. Do đó càng
mẫu hoá được nhiều văn bản thì việc sử dụng càng thuận lợi, chính xác và hiệu
quả. Thứ ba, bồi dưỡng nghiệp vụ văn phòng cho cán bộ làm công tác văn phòng.
Thứ tư, từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác
soạn thảo văn bản.
Trên đây là
một số hạn chế về văn phong ngôn ngữ trong văn bản QPPL của chính quyền cấp xã
ở Nam Định. Những hạn chế này nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước. Do đó cần thiết phải nâng cao
hơn nữa chất lượng văn phong ngôn ngữ trong văn bản QPPL của chính quyền cấp xã
ở Nam Định giai đoạn hiện nay./.
NHẬN THỨC
MỚI CỦA ĐẢNG TA VỀ VAI TRÒ
THÀNH PHẦN
KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XII
CN. Trần
Thùy Dương
Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh
Kinh tế tư nhân được dùng để chỉ
thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh
tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, cả hai cùng thuộc chế độ sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất, tuy nhiên quy mô sản xuất là khác nhau.
Từ Đại hội VI - Đại hội đổi mới
đất nước cho đến nay, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế tư nhân là một
chủ trương nhất quán, lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Để tiếp tục khuyến khích và tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế
tư nhân, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng đã xác định nhiều chủ
trương, quan điểm mới về kinh tế tư nhân đáp ứng yêu cầu thực tiễn của sự
nghiệp cách mạng:
Đại hội XII của Đảng có bước phát
triển mới về vai trò của kinh tế tư nhân được đông đảo dư luận trong và ngoài
nước đánh giá cao. Đại hội khẳng định “kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng” trong sự phát triển của
đất nước. Đây được xem là một điểm sáng trong kỳ đại hội lần này. Tại các Đại
hội trước, Đảng ta khẳng định kinh tế tư nhân là “một trong những động lực”,
nhưng đây là lần đầu tiên xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng
của nền kinh tế. Điểm này không chỉ là sự xác nhận vai trò mới của kinh tế tư
nhân, mà còn mở ra những cơ hội mới để thành phần kinh tế này phát triển mạnh
mẽ hơn trong những năm sắp tới.
Nhìn lại chặng đường 30 năm thực
hiện đường lối đổi mới, có thể thấy rất rõ những đóng góp tích cực của kinh tế
tư nhân đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: góp phần giải quyết
công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
đóng góp ngày càng lớn cho ngân sách nhà nước, tạo ra nhiều loại hàng hóa chất
lượng ngày càng cao, giá cả ngày càng hợp lý đáp ứng nhu cầu đa dạng của người
dân… Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê đến năm 2014, kinh tế nhà nước
đóng góp 28,73% GDP, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 17,89% GDP, trong đó kinh
tế tư nhân là 43,33% GDP, đến nay kinh tế tư nhân đóng góp trên 50% GDP cả
nước. Không chỉ đóng góp lớn trong GDP mà khu vực kinh tế tư nhân còn đóng góp
đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước. Theo bảng xếp hạng 1.000 doanh nghiệp
nộp thuế nhiều nhất Việt Nam ngày 23/9/2010 số lượng danh nghiệp tư nhân đã
chiếm tỷ lệ ngang với doanh nghiệp nhà nước. Đây là năm đầu tiên thông qua bảng
xếp hạng để ghi nhận và tôn vinh các doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt,
tuân thủ pháp luật, chính sách về thuế và đóng góp thuế thu nhập lớn cho ngân
sách quốc gia. Bên cạnh đó, khu vực
kinh tế tư nhân còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng các công trình văn hóa,
thể dục thể thao, trường học, đường xá, cầu cống, nhà tình nghĩa và nhiều công
trình phúc lợi xã hội khác trên mọi miền Tổ quốc; khu vục này còn góp phần to
lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động,
nâng cao chất lượng lao động…Tính đến cuối năm 2015 có khoảng 500.000 doanh
nghiệp tư nhân đang hoạt động, tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm…Nhiều doanh
nghiệp của Việt Nam đã lớn mạnh sánh ngang với các doanh nghiệp nước ngoài. Có
thể khẳng định: “Cần khẳng định vai trò
động lực của khu vực kinh tế tư nhân, vì khu vực kinh tế tư nhân là khu vực của
toàn dân. Hãy tin vào nhân dân, hãy tin vào sự nghiệp làm kinh tế của nhân dân.
Nhà nước hãy đóng vai trò như nhà nước kiến tạo, nhà nước hỗ trợ và đóng vai
trò là hậu phương vững chắc của nhân dân cho sự nghiệp làm ăn kinh tế của toàn
dân”.
Để tiếp tục khuyến khích, thúc
đẩy kinh tế tư nhân phát triển trong điều kiện nước ta đã và đang hội nhập ngày
càng sâu rộng với khu vực và quốc tế, Đại hội XII của Đảng đã xác định giải
pháp quan trọng hàng đầu là: Hoàn thiện
cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân
ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế; trong đó chú trọng hoàn thiện chính
sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp.
Doanh nghiệp là lực lượng chủ công trong phát triển đất nước, song các doanh
nghiệp thuộc khu vực tư nhân của nước ta chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, năng lực
cạnh tranh thấp, sản phẩm chất lượng chưa cao, năng lực quản trị còn nhiều hạn
chế. Theo đánh giá của Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN)
chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Con số thống kê cho hay, DNVVN
chiếm trên 97% tổng số DN cả nước, đóng góp khoảng 50% GDP, 33% thu ngân
sách nhà nước (NSNN), tạo ra 62% việc làm cho người lao động, đóng góp 49% vào
việc tạo giá trị gia tăng cho nền kinh tế…
Tuy nhiên, các DNVVN hầu hết có quy mô từ nhỏ đến siêu nhỏ (vốn chỉ ở mức 4
- 7 tỷ đồng/doanh nghiệp). Đã vậy, số lượng doanh nghiệp bị ngừng hoạt động,
phá sản diễn biến theo xu hướng tăng theo thời gian. Chỉ tính riêng quý I-2015,
cả nước có tới trên 2.500 doanh nghiệp tuyến bố phá sản, giải thể. Mặc dù đây
là con số giảm (khoảng 0,6%) so với cùng kỳ năm 2014, song số liệu này cũng cho
thấy, các DNVVN của Việt Nam với quy mô vốn không lớn nên khó có thể trụ vững khi
có biến động của môi trường kinh doanh.
Đáng nói là, nền kinh tế đang bước vào ngưỡng cửa hội nhập, hàng loạt các
hiệp định thương mại song phương đang được Việt Nam tiến hành ký kết với các
quốc gia, song có tới trên 80% doanh nghiệp trong nước không biết đến và chưa
có chuẩn bị gì về tác động của những hiệp định này. Thực tế này là vô cùng
đáng lo ngại, bởi sự thiếu thông tin khi hội nhập sẽ càng khiến cho các doanh
nghiệp Việt Nam vốn yếu, lại càng yếu thêm trước các đối thủ mạnh. Và chính yếu
kém này dẫn đến việc các doanh nghiệp của ta không tiếp cận được thị trường
xuất khẩu. Khi đó, các cơ hội đến từ việc hội nhập sẽ có nguy cơ bị bỏ
lỡ. Chính vì vậy, Đại hội lần thứ XII Đảng đã chỉ ra phải nỗ lực không ngừng cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh để doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân
nói riêng phát triển.
Điều quan trọng là, thực hiện hóa chủ trương tạo môi
trường, điều kiện thuật lợi cho phát triển các thành phần kinh tế nói chung,
phát triển kinh tế tư nhân, từng cấp, ngành, đơn vị, địa phương từ Trung ương
đến địa phương phải tập trung nghiên cứu, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
bảo đảm đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Hoàn thiện khung pháp lý, cơ
chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông
suốt, hiệu quả các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.
Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế
thị trường, bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật.
Một bước tiến mới của Đại hội XII trong thúc đẩy kinh
tế tư nhân phát triển đó là lần đầu tiên Đảng ta xác định chủ trương: “Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế
tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”.
Quan điểm trên của Đảng xuất phát từ thực tiễn phát
triển của kinh tế tư nhân. Trong 30 năm đổi mới và phát triển, kinh tế tư nhân
đã từng bước phát triển nhanh chóng cả về quy mô và chất lượng, làm cho không
ít doanh nghiệp tích tụ được một lượng vốn, tài sản lớn, hoạt động, quản lý
theo phương thức tiên tiến. Chính vì vậy, sự xuất hiện của các tập đoàn kinh tế
tư nhân là một xu hướng tất yếu và phù hợp với chủ trương lớn: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất…”.
Việc khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân
góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước là hoàn toàn khách quan, khoa học. Nó
sẽ là cơ sở quan trọng để nhà nước hoàn chỉnh khung pháp lý, tăng cường quản
lý, định hướng, hỗ trợ kịp thời cho kinh tế tư nhân phát triển theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tốt vai trò “động lực quan trọng của nền kinh
tế”.
Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân
tại Đại hội XII là một trong những nội dung lớn, đúng đắn, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn cách mạng, có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới nói chung, phát
triển kinh tế ở nước ta hiện nay nói riêng. Quán triệt, nắm vững quan điểm trên
của Đảng không những tạo động lực mạnh mẽ cho khu vực kinh tế tư nhân phát
triển đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước mà còn khắc phục được những
hạn chế của khu vực này đặc biệt là tính tự phát để đảm bảo tính định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta./.
HỘI THI HỌC VIÊN HỌC GIỎI LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ LẦN THỨ NHẤT
- KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM
ThS. Lê Thị Như Hoa
Trưởng
phòng Đào tạo
Thực hiện Hướng dẫn số 159/HD-HVCTQG, ngày 22 tháng 10
năm 2015 của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về tổ chức Hội thi học
viên học giỏi lý luận chính trị; thiết thực chào mừng kỷ niệm 126 năm ngày sinh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2016); hướng tới kỷ niệm 60 năm ngày
thành lập trường (09/6/1956 - 09/6/2016), Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh
Nam Định đã tổ chức Hội thi học viên học giỏi lý luận chính trị lần thứ Nhất -
năm 2016.
Mục đích của Hội thi là: tuyển chọn, công nhận và suy
tôn học viên học giỏi lý luận chính trị; giúp học viên tìm ra phương pháp học
tập hiệu quả nhất nhằm nâng cao chất lượng học tập lý luận chính trị; đẩy mạnh
phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt”, nhân rộng điển hình tiên tiến, tạo động
lực phát triển sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của nhà trường. Đây là hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đánh
giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đánh giá chất lượng giảng dạy của
giảng viên và học tập của học viên tại các lớp Trung cấp lý luận chính trị -
hành chính, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của
nhà trường.
Để tiến tới Hội thi, Ban Giám đốc nhà trường đã xây
dựng kế hoạch tổ chức Hội thi, thành lập Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Hội thi; chỉ
đạo các cơ sở liên kết đào tạo, các lớp Trung câp lý luận chính trị - hành
chính sơ tuyển, chọn cử học viên tham dự Hội thi. Nhà trường đã mời lãnh đạo
các khoa của các trường chính trị trong cụm thi đua số 4 Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh tham gia Ban Giám khảo Hội thi.
Hội thi diễn ra sôi nổi,
khẩn trương trong ngày 2 ngày 18, 19/5/2016, thu hút đông đảo học viên các lớp,
các đồng chí lãnh đạo các cơ sở đào tạo tham gia. Có 35 học viên được lựa chọn
từ 18 lớp/24 lớp ở 11/12 đơn vị mở lớp tham gia. Các học viên đã tham dự 2 phần thi: phần thi viết và phần thi thuyết
trình. Học viên dự thi, với nhiều độ tuổi, trình độ chuyên môn, lĩnh vực công
tác khác nhau nhưng với sự nhiệt tình, niềm say mê học tập, nghiên cứu nâng cao
trình độ lý luận chính trị đã dành thời gian, trí tuệ ôn tập và với tri thức,
kinh nghiệm của mình thể hiện bài thi khá tốt. Nhiều bài thi thể hiện sự hiểu
biết sâu sắc về kiến thức trong chương trình Trung cấp chính trị - hành chính,
sự vận dụng kiến thức lý luận sát với thực tiễn của ngành, địa phương, đơn vị.
Các bài thi là thành quả của quá trình học tập, nghiên cứu của học viên, đồng
thời cũng là thành quả của các thầy, cô giáo.
Kết thúc Hội thi, 35/35 thí sinh dự thi đạt danh hiệu
học viên học giỏi lý luận chính trị (đạt 16/20 điểm trở lên). Trong đó: 12 thí
sinh đạt giải Nhất (tổng điểm 2 bài thi đạt trên 18 điểm), 11 thí sinh đạt giải
Nhì (tổng điểm 2 bài thi đạt từ 17 điểm đến dưới 18 điểm), 12 thí sinh đạt giải
Ba (tổng điểm 2 bài thi đạt từ 16 điểm đến dưới 17 điểm).
Tuy nhiên, đây là lần đầu nhà
trường tổ chức Hội thi nên không tránh khỏi những hạn chế nhất định như: số
lượng đề thi chưa được phân bố đều ở tất cả các môn, phần học; phần thi thuyết
trình tổ chức bằng hình thức thi vấn đáp, vì vậy chưa tạo cơ hội cho học viên
thể hiện khả năng thuyết trình, kỹ năng trả lời các câu hỏi phụ và khả năng
giao lưu với Hội thi.
Hội thi học viên học giỏi lý luận chính trị tỉnh Nam Định lần
thứ Nhất – năm 2016 đã đạt được những mục tiêu đề ra. Hội thi nhận được sự đánh giá cao của lãnh đạo Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Vụ các trường Chính trị, lãnh đạo các trường chính trị trong
cụm thi đua số 04 và các đơn vị trong khối thi đua các cơ quan Đảng thuộc Tỉnh
ủy Nam Định về công tác đào tạo của nhà trường, về ý thức của học viên, sự quan
tâm, tạo điều kiện của các đơn vị phối hợp đào tạo.
Từ kết quả của Hội thi, nhà trường
rút ra một số kinh nghiệm sau:
Thứ nhất,
tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Vụ Các trường chính trị; sự giúp đỡ, hỗ trợ, động viên nhiệt tình, trách
nhiệm của các trường chính trị trong cụm thi đua số 4.
Thứ hai, huy
động sự “vào cuộc” của tất cả các bộ phận, xây dựng kế hoạch cụ thể, phân công,
phân nhiệm rõ ràng cho các khoa, phòng, các bộ phận có liên quan. Chỉ đạo các
khoa chuyên môn xây dựng đề thi, đáp án, tham gia Ban Giám khảo; phòng Đào tạo
xây dựng kế hoạch, sắp xếp lịch học của các lớp, xây dựng các văn bản, biểu
mẫu, giấy khen, kết nối các bộ phận liên quan; phòng Tổ chức - Hành chính -
Quản trị chịu trách nhiệm mời, đón tiếp khách, ban giám khảo các trường bạn,
trang trí, khánh tiết, kinh phí, cơ sở vật chất; phòng Nghiên cứu khoa học -
Thông tin - Tư liệu chuẩn bị máy móc, phương tiện, thiết bị phục vụ Hội thi.
Thứ ba, tạo
sự đồng tình, phối hợp tích cực của các đơn vị mở lớp. Căn cứ vào Kế hoạch tổ
chức Hội thi, các Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thành phố, các cơ sở đào
tạo đã chủ động chọn, cử học viên tham dự Hội thi; tổ chức, động viên, hỗ trợ
kinh phí cho các học viên. Một số Trung tâm đã tổ chức gặp mặt động viên học
viên trước Hội thi; giúp học viên chuẩn bị, ôn luyện nội dung thi chu đáo.
Thứ tư, chọn, cử học
viên dự thi là những người có ý thức học tập tốt, có trách nhiệm, nghiêm túc
thực hiện quy chế trong quá trình học tập; cố gắng thu hút được sự tham gia
nhiều nhất của các lớp đang học tại trường, bảo đảm đơn vị nào cũng có học viên
dự thi với sự đa dạng về lĩnh vực công tác. Đây là yếu tố làm cho Hội thi có sự
đa dạng, phong phú, hấp dẫn, nhất là phần thi thuyết trình.
Thứ năm, chú trọng nhân
rộng kết quả Hội thi, tạo sức lan toả, khí thế học tập sôi nổi ở tất cả các lớp
thuộc các chương trình đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường.
Hội thi
học viên học giỏi lý luận chính trị lần thứ Nhất - năm 2016 do Trường Chính trị
Trường Chinh tỉnh Nam Định tổ chức về cơ bản đã thành công tốt đẹp. Những kết
quả đạt được, những hạn chế và những kinh nghiệm rút ra là những bài học quý
cho việc tổ chức các Hội thi tiếp theo./.
BÁC HỒ VỚI
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
VÀ “BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU”
CN. Nguyễn
Thị Huyền
Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà văn
hóa kiệt xuất đồng thời cũng là nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người
đã để lại cho dân tộc Việt Nam một kho tàng tài sản tinh thần vô giá, trong đó
có những cống hiến lớn lao của Người về sự nghiệp giáo dục - đào tạo; sự cống
hiến đó của Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận quan trọng làm nên sự nghiệp
văn hóa kiệt xuất của Người.
Bác là người thầy vĩ đại của cách
mạng Việt Nam không chỉ với ý nghĩa là người vạch đường, chỉ lối, người tổ
chức, lãnh đạo, cổ vũ nhân dân ta làm nên thắng lợi, mà còn là người thầy - với
ý nghĩa đã trực tiếp giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng cho bao thế hệ cán bộ của
cách mạng Việt Nam. Từ thầy giáo Nguyễn Tất Thành ở trường học Dục Thanh (Phan
Thiết) dù chỉ là trợ giáo môn thể dục và phụ trách hoạt động ngoại khóa nhưng
Người đã đem hết lòng nhiệt tình truyền thụ cho các em học sinh lòng yêu nước
và suy nghĩ của mình về vận mệnh đất nước; tiếp đến là hình ảnh đồng chí Vương
ở lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu (Trung Quốc), sau này là lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh ở biên giới Việt - Trung
(Cao Bằng); đến các lớp học tập, nghiên cứu lý luận cho cán bộ trung, cao cấp
của Đảng…
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn
hiện thân là một người thầy mẫu mực, cần mẫn vun xới, chăm sóc cho sự nghiệp “trồng
người” của dân tộc. Cũng chính tâm huyết ấy đã đào tạo nên bao lớp thế hệ cán
bộ cách mạng trung thành, sáng suốt, họ đã cùng với Người đưa dân tộc ta từ một
dân tộc nô lệ, bị kìm hãm trong lạc hậu, tối tăm từng bước tiến lên làm chủ đất
nước, từng bước nâng cao văn hóa, đạo đức, lối sống… của dân tộc mình để có thể
sánh vai, bước kịp các nước trên thế giới. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh là một
nhà giáo dục vĩ đại đã khai sáng cho cả một dân tộc.
Sau
khi nước nhà giành được độc lập, trên cương vị Chủ tịch nước, Người đã không
ngừng quan tâm đến sự nghiệp giáo dục ở mọi cấp, từ giáo dục mẫu giáo, trung
học, phổ thông đến giáo dục chuyên nghiệp, đại học. Người thường xuyên gửi thư,
dành thời gian đến thăm nhiều trường học, từ Thủ đô đến miền núi, hỏi han, động
viên và căn dặn nhiều điều quý báu. Những bức thư, những bài nói chuyện của Bác
với thầy giáo, học sinh các trường đã trở thành tâm niệm của bao thế hệ thầy
trò trước đây và ngày nay vẫn giữ nguyên tính khoa học, tính hiện đại đối với
sự nghiệp cải cách, đổi mới và phát triển giáo dục nước ta ở thời đại kinh tế
tri thức, xã hội thông tin và giao lưu, hội nhập với thế giới. Người đã từng
căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải
trồng người”. Nói như vậy, có nghĩa là
Người coi sự nghiệp giáo dục - đào tạo - sự nghiệp “trồng người” là một chiến
lược cơ bản, lâu dài của cách mạng, là quốc sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước
ta, đòi hỏi chúng ta phải luôn quan tâm và đầu tư cho sự nghiệp giáo dục. Vì
vậy, trong cuộc họp Chính phủ đầu tiên Người đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách,
cần giải quyết ngay trong đó có hai nhiệm vụ về giáo dục: một là cần “mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ” để xóa “nạn
dốt”; hai là cần “mở một chiến dịch
giáo dục lại tinh thần nhân dân ta bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính”. Người coi nạn mù chữ là
một thứ giặc nguy hại không kém gì giặc ngoại xâm; để chống và xóa nạn dốt,
Người đã phát động phong trào “bình dân học vụ” hưởng ứng, cổ vũ cho việc học
chữ; góp phần xóa nạn mù chữ của nhân dân.
Người
không nói những điều to tát nhưng lại rất thấm thía: “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu”, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, chỉ có phát triển giáo dục, nâng cao dân
trí, đào tạo ra những con người có năng lực, trình độ, những con người vừa hồng vừa chuyên, yêu lao động, yêu đất nước, có lý tưởng, hoài bão, thì mới
có thể làm cho dân tộc mạnh và thoát khỏi nỗi buồn dân tộc nhược tiểu, bởi
nghèo, dốt là kém cỏi, nghèo đi liền với hèn và khó. Vì thế trong thư gửi cho
học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác
đã viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
em”. Từ đó, Người chỉ rõ một
trong những công việc phải thực hiện cấp tốc lúc này là nâng cao dân trí, bởi
không có một quốc gia nào có thể tiến hành xây dựng một xã hội mới và bảo vệ Tổ
quốc thành công trong điều kiện văn hóa, dân trí, đạo đức, tinh thần, xã hội
thấp kém.
Không
chỉ đề ra nhiệm vụ, công việc cấp bách phải thực hiện mà Bác còn chỉ ra mục
tiêu cụ thể cho nền giáo dục mới và nhà trường mới phải thực hiện đó là: Học để
làm việc, làm người, làm cán bộ; học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân
dân, Tổ quốc và nhân loại; học để sửa chữa tư tưởng; học để tu dưỡng đạo đức
cách mạng; học để tin tưởng và học để hành. Như vậy, mục tiêu cụ thể của giáo
dục mà Người đề ra khác hẳn với mục tiêu giáo dục của xã hội phong kiến hay xã
hội thực dân. Nếu như mục tiêu giáo dục của xã hội phong kiến coi trọng việc
học để thi đỗ làm quan, gắn liền với công danh; thì mục tiêu giáo dục mà Bác đề
ra đầu tiên là học để làm việc, làm người, rồi mới đến làm cán bộ, và làm cán
bộ ở đây là phụng sự nhân dân, phụng sự đoàn thể, phụng sự Tổ quốc; cán bộ là
những người công bộc thực sự của nhân dân, phải trau dồi, rèn luyện, tu dưỡng
đạo đức; đặc biệt Người còn chỉ ra mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục - đào tạo là
bồi dưỡng, đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau, bồi dưỡng những chủ nhân tương
lai của nước nhà.
Về
nhiệm vụ và nội dung của giáo dục, Người yêu cầu, cần xây dựng một nền giáo dục
toàn diện: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức
cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, lao động
sản xuất”. Như vậy, Người đòi hỏi,
người thầy giáo không chỉ cung cấp tri thức, phát triển năng lực nhận thức, mở
mang trí tuệ cho người học, mà còn phải hết sức chú ý bồi dưỡng, giáo dục tư
tưởng, chính trị, đạo đức cho học sinh, tức là giáo dục toàn diện; trong tư
tưởng của Người bao giờ đạo đức cũng đi liền với tài năng; trong đó, đạo đức là
gốc, là sức mạnh để giúp con người ta gánh được nặng và đi được xa, còn tài năng
đòi hỏi phải trau dồi, học tập. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng
vô dụng, không chỉ đào tạo những con người giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn
phải có đức; không chỉ giỏi và hiểu biết về một lĩnh vực, về chuyên môn của
mình mà phải tìm hiểu, nghiên cứu về các lĩnh vực khác như khoa học, kỹ thuật,
văn hóa, yêu đất nước, giống nòi và biết yêu lao động.
Nói về vị
trí, vai trò của giáo dục với xã hội, mà đặc biệt là vai trò của người thầy,
theo Bác, mối quan hệ giữa người thầy với giáo dục và sự phát triển kinh tế,
văn hóa của đất nước là một quá trình thống nhất. Trong đó, người thầy là
chủ thể có vị trí cực kỳ quan trọng và rất vẻ vang; Người nói: “Nhiệm vụ người
thầy rất vẻ vang, vì nếu không có thầy, cô giáo thì không có giáo dục,… Không
có giáo dục thì nói gì đến kinh tế, văn hóa”. Bác xem việc dạy học là một nghề đào tạo và
rèn luyện những con người để xây dựng xã hội ngày càng phát triển, đó là công
việc vô cùng quan trọng, khó khăn, là sự cống hiến thầm lặng, hữu ích nhưng
cũng rất vẻ vang nếu trở thành một nhà giáo tốt.
Hồ Chí Minh luôn thể hiện tư
duy linh hoạt, chủ động, vì thế, khi bàn về chức năng và mục tiêu giáo dục của
nước nhà Người luôn xác định cụ thể, phù hợp trong từng giai đoạn phát triển
của xã hội, đáp ứng nhu cầu đào tạo những con người có khả năng phục vụ cho xã
hội một cách tốt nhất, hiệu quả nhất. Bởi nhiệm vụ của người thầy không chỉ là
sự truyền bá tri thức, phương pháp, tay nghề cho người học, mà thầy giáo cũng
như học trò, tất cả đều phải tham gia vào các công việc xã hội một cách thật
tích cực; nhà trường phải gắn liền với thực tiễn xã hội, gắn liền với đời sống
của nhân dân; người làm thầy giáo phải luôn là tấm gương không ngừng học tập để
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức để làm tấm gương sáng cho học trò noi theo, để đáp ứng yêu cầu của thời
đại mới trên mọi phương diện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam,
chính Người đã đặt nền tảng cho ngành giáo dục - đào tạo của nước ta. Những quan
điểm của Người về giáo dục vừa cách mạng, vừa khoa học, vừa hiện đại. Đó là di
sản mà chúng ta cần học tập, quán triệt sâu sắc và trên thực tế, tư tưởng đó đã
trở thành đường lối, chính sách giáo dục của Đảng, Nhà nước ta./.
ĐOÀN THANH NIÊN TRƯỜNG
CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH
VỚI VIỆC ĐẨY MẠNH HỌC
TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
CN. Nguyễn Thị Thu Lan
Bí thư đoàn trường
Ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành
Chỉ thị 05-CT/TƯ về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh" với những yêu cầu đưa việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo
đức của Hồ Chí Minh lên một tầm mức mới với nội dung hết sức cụ thể gắn với
công việc hằng ngày tại cơ quan, đơn vị, qua đó, phải có chuyển biến mạnh mẽ
trong hành động và từng việc làm cụ thể.
So với các Chỉ thị trước đây của Trung ương về học tập
và làm theo Bác, Chỉ thị 05-CT/TW có nội dung rộng hơn, phong phú, rõ ràng hơn
và yêu cầu cũng cao hơn. Nhưng bao trùm của Chỉ thị 05 là: Việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phải tiếp tục thực hiện mạnh mẽ. Không
lý thuyết, không nói suông, không chung chung, hình thức. Phải gắn việc học tập
và làm theo tấm gương của Bác với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi
cấp, mỗi ngành, mỗi địa phương, đơn vị và với mỗi một cán bộ, đảng viên.
Đoàn viên thanh niên trường Chính trị Trường Chinh với
tổng số 23 đoàn viên, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy nhà trường luôn kiên định lý
tưởng độc lập dân tộc và CNXH, tuyệt đối trung thành với Đảng, vượt qua khó
khăn, thử thách, tích cực hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, tham gia vào
sự nghiệp đào tạo bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh Nam Định.
Hiện nay, cùng với toàn thể cán bộ Đảng
viên, giảng viên, nhân viên nhà trường, thanh niên nhà trường đang tích cực đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là
một đợt sinh hoạt chính trị hết sức quan trọng, có tác dụng tích cực tới mọi
mặt hoạt động của nhà trường. Việc tổ chức thực hiện tốt học tập và làm theo
tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, được Ban Chấp hành Đoàn thực hiện
dưới nhiều hình thức phong phú, sinh động, thiết thực như:
- Yêu cầu 100% đoàn viên tham gia học tập
tại Hội nghị quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp do Đảng ủy khối các cơ
quan tỉnh và Đảng ủy nhà trường tổ chức, gồm Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XIX, các Nghị
quyết trọng tâm của Đảng bộ tỉnh: Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 20/4/2016 về xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 09/6/2016
về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, xúc tiến và thu
hút đầu tư giai đoạn 2016-2020, Nghị quyết số 06- NQ/TU ngày 09/6/2016 về tập
trung xây dựng, phát triển thành phố Nam Định, hình thành rõ nét một số chức
năng trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng (giai đoạn 2016-2020), Nghị quyết
số 07-NQ/TU ngày 09/6/2016 về xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định; Nghị quyết số 09- NQ/TU
ngày 20/10/2016 về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
từ năm 2016 đến năm 2020 và những năm tiếp theo; đặc biệt là tuyên truyền tới
Đoàn viên Nghị quyết số 06-NQ/ĐU ngày 24 tháng 3 năm 2016 của Đảng ủy trường
Chính trị Trường Chinh “Về tiếp tục nâng
cao chất lượng giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại trường Chính
trị Trường Chinh”.
Sau khi được
học tập các Nghị quyết, đoàn viên giảng viên
đã kịp thời sửa đổi bổ sung giáo án để đưa các Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh,
của nhà trường tuyên truyền tới các đối tượng học viên trong các chương trình
đào tạo, bồi dưỡng. Tháng 3/2016, Đoàn thanh niên nhà trường tổ chức
buổi tọa đàm “Đoàn viên thanh niên
Trường Chính trị Trường Chinh với việc đổi mới phương pháp giảng dạy”, nhằm
trao đổi các phương pháp giảng dạy giữa các đoàn viên với các giảng viên có
kinh nghiệm của nhà trường, qua đó tích lũy kinh nghiệm, góp phần nâng cao
trình độ lý luận và thực tiễn của giảng viên trẻ.
Động viên đoàn viên luôn sẵn sàng nhận hoàn thành nhiệm vụ được giao bao
gồm: nhiệm vụ giảng dạy, phục vụ giảng dạy; nhiệm vụ nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu thực tế; không ngừng học tập nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp
vụ; có ý thức kỷ luật tự giác, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước nội quy quy
chế làm việc của cơ quan; tham gia các hoạt động phong trào như: phong trào
giữa gìn An ninh trật tự, an toàn cơ quan; các hoạt động văn hóa, văn nghệ thể
thao, hoạt động tình nguyện; hoạt động phòng chống, khắc phục hậu quả lụt bão,
hiến máu nhân đạo.... do nhà trường và đoàn cấp trên phát động.
Ban chấp hành Đoàn trường tổ chức phát
động đoàn viên đăng ký rèn luyện, phấn đấu làm theo lời Bác dạy, rèn luyện đạo đức, lối sống văn
hóa lành mạnh, trong sáng, có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, chống
xa hoa, lãng phí. Bên cạnh đó, làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm, xây dựng và nêu gương điển hình trong đoàn trường.
Đến nay, việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã thực sự tạo được bước chuyển biến mạnh
mẽ trong đoàn viên, thanh niên về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, học tập, nâng cao
đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Cổ vũ đoàn viên
tích cực phấn đấu học tập, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của
đơn vị, xây dựng Đảng bộ nhà trường trong sạch, vững mạnh, toàn diện. Đoàn
trường hiện có 06/23 đồng chí có trình độ Thạc sĩ; 03 đồng chí đang học cao
học, 04 đồng chí đăng kí dự thi cao học năm 2016; 01 đồng chí đang học Cao cấp
lý luận chính trị, 04 đồng chí có bằng Trung cấp lý luận chính trị; 04 đồng chí
đang học Trung cấp chính trị - hành chính. Đoàn viên nhà trường không có hiện
tượng vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy quy chế của cơ quan đến mức kỷ luật,
không vi phạm đạo đức lối sống... Trong năm 2016, Đoàn viên là giảng viên đã
tham gia hội giảng nhân kỉ niệm 60 ngày thành lập trường (9/6/1956 - 9/6/2016),
hội giảng cấp khoa để chọn thi giảng viên giỏi cấp trường và tham gia các đề
tài khoa học cấp khoa, nghiên cứu khoa học nghiên cứu thực tế; về hoạt động
phong trào có 9 đoàn viên tham gia hiến máu nhân đạo, 15 đoàn viên tham gia
hoạt động thể thao chào mừng các ngày lễ lớn, 100% đoàn viên tham gia quyên góp
tổng số tiền ủng hộ trẻ khuyết tật lên đến hàng chục triệu đồng...
Trong thời gian tới, để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh tiếp tục đi vào nề nếp:
Mỗi đoàn
viên, thanh niên phải tự mình nỗ lực, không ngừng nêu cao tinh thần tự giác,
rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng; trong sáng về đạo đức lối sống, giỏi về
chuyên môn nghiệp vụ, có sức khoẻ, có ý chí phấn đấu vươn lên, có tinh thần
đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ đào tạo
bồi dưỡng cán bộ của nhà trường trong giai đoạn hiện nay. Nói không với bệnh
thành tích và những việc làm hình thức, trong việc thực hiện cần phải “nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”.
Ban Chấp
hành Đoàn làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo nhà trường trong công tác sơ
kết, tổng kết, đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm. Kịp thời nêu gương người tốt,
việc tốt; đồng thời nêu cao tự phê bình và phê bình, phân tích làm rõ những hạn
chế, yếu kém và hướng khắc phục trong học tập và làm theo lời Bác trong từng
đơn vị khoa, phòng, trong Đoàn trường.
Kết hợp chặt
chẽ việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với yêu
cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và các nội dung hoạt động khác của từng đơn vị
khoa, phòng. Lấy tiêu chí đánh giá đoàn viên trên cơ sở hoàn thành nhiệm vụ mà
khoa, phòng giao. Thực hiện tốt các yêu cầu của Chỉ thị số 05-CT/TƯ mà Bộ Chính
trị (khóa XII) đã ban hành về "Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Đề nghị Đảng
ủy, Ban Giám đốc, lãnh đạo các khoa, phòng nhà trường và Đoàn khối các cơ quan
tỉnh tiếp tục quan tâm tới công tác đoàn và phong trào thanh niên của nhà
trường. Thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng và tổ chức; giữ vững nguyên tắc, chế độ sinh hoạt; gắn xây dựng tổ
chức Đoàn với xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, nhà trường vững mạnh
toàn diện.
Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu
quả việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương, phong cách Hồ Chí Minh là
công việc hết sức cần thiết, vô cùng quan trọng. Mỗi đoàn viên phải luôn soi
mình vào tấm gương của Bác để tìm thấy cho bản thân những điều có thể học tập
và làm theo./.
MỘT SỐ KINH
NGHIỆM
TRONG HOẠT
ĐỘNG CHUYÊN MÔN CỦA PHÒNG ĐÀO TẠO
ThS. Trần
Thùy Dương
Phó Trưởng phòng Đào tạo
Sinh hoạt chuyên môn là một hoạt
động nằm trong tổ chức giáo dục của các nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, quản lý học sinh, sinh viên, học
viên đảm bảo
cho giáo viên được trao đổi, chia sẻ và học tập kinh nghiệm lẫn nhau.
Để tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ
về chất lượng các hoạt động, dưới sự chỉ đạo của Ban Giám đốc, các khoa, phòng
trường Chính trị Trường Chinh trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao đã
thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả các các buổi sinh hoạt
chuyên môn của đơn vị mình.
Phòng Đào tạo với chức năng cơ
bản là tham mưu cho Ban Giám đốc quản lý toàn bộ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
của nhà trường luôn đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn của
phòng.
Xuất phát từ nhiệm vụ cụ thể của
phòng là: Tham mưu xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của
trường; tham mưu, quản lý việc giảng dạy của giảng viên và học tập của học
viên; tham mưu, giúp Ban Giám đốc xác định chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng của các
loại hình đào tạo, bồi dưỡng; là đầu mối làm việc với các đơn vị liên quan (các
khoa, phòng, các đơn vị phối hợp) về công tác đào tạo, bồi dưỡng của nhà
trường; hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các khoa, phòng về quản lý công tác đào
tạo, bồi dưỡng theo đúng mục tiêu, yêu cầu, kế hoạch và quy chế, quy định về
quản lý đào tạo, bồi dưỡng của Đảng, nhà nước, của tỉnh; tham mưu công tác
chiêu sinh, tuyển sinh, khai giảng, chủ nhiệm lớp, tổ chức kiểm tra, thi, viết
tiểu luận cuối khóa, bế giảng các lớp…Với đặc thù công việc của phòng nên việc tổ chức
sinh hoạt chuyên môn có nhiều điểm khác biệt so với các khoa giảng dạy trong
nhà trường.
Đối
với các khoa chuyên môn, sinh hoạt chuyên môn là một hoạt động nhằm nâng cao chất
lượng dạy học đảm bảo cho giảng viên được trao
đổi, chia sẻ và học tập kinh nghiệm lẫn nhau.
Đối
với phòng Đào tạo, sinh hoạt chuyên môn là hoạt động nhằm nâng cao chất lượng
tham mưu, xây dựng kế hoạch và công tác phối hợp quản lý trong đào tạo nhằm đảm
bảo cho viên chức của phòng được trao đổi, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm.
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của đơn vị, tập thể và cá nhân viên chức phòng Đào tạo đã chủ động nghiên cứu,
tham mưu, đề xuất và mạnh dạn đổi mới nhiều hoạt động trong công tác chuyên môn
như: tích cực, chủ động hơn trong công tác tham mưu; công tác quản lý đào tạo
đã có những đổi mới bước đầu đạt kết quả tích cực. Những việc làm đó đã góp
phần từng bước nâng cao hiệu quả công tác chuyên môn của phòng, khẳng định
những việc đã làm tốt để phát huy, đồng thời chỉ ra những tồn tại, bất cập, từ
đó đề ra các giải pháp để không ngừng nâng cao hiệu quả công tác. Qua nhiều lần tổ chức
sinh hoạt chuyên môn, phòng Đào tạo chúng tôi rút ra một số kinh nghiệm để tổ chức ngày càng
hiệu quả, thiết thực hơn như sau:
Thứ nhất,
cần xây dựng kế hoạch tổ chức sinh hoạt chuyên môn của phòng trong từng tháng,
quý. Kế hoạch, sinh hoạt chuyên môn được xây dựng và phổ biến đến từng cán bộ,
viên chức để mọi người nắm được thời gian, địa điểm, phương thức tổ chức, thành
phần tham gia. Đặc biệt để cán bộ, viên chức trong phòng chủ động chuẩn bị nội
dung phục vụ cho buổi sinh hoạt được hiệu quả, ý nghĩa. Kế hoạch được xây dựng
trên tinh thần buổi họp phòng hàng tháng, hàng quý, nội dung sinh hoạt đã được
triển khai, thống nhất trong từng cán bộ, viên chức của phòng; hàng tháng đồng
chí trưởng phòng xây dựng kế hoạch cụ thể. Để phong phú nội dung trong buổi
sinh hoạt, yêu cầu các cán bộ, viên chức trong phòng phải có sự chuẩn bị các
nội dung công việc cụ thể của mình trong buổi sinh hoạt. Các công việc cụ thể:
Công tác tham mưu xây dựng kế hoạch, công tác chủ nhiệm lớp, công tác khoa học,
công tác nghiên cứu thực tế, công tác phối hợp....
Thứ hai, về
trình tự tổ chức buổi sinh hoạt chuyên môn của phòng. Để cho buổi sinh hoạt
chuyên môn sôi nổi hiệu quả, đạt được mục đích đã đặt ra, trước hết, từng cán
bộ, viên chức của phòng trên cơ sở nội dung công việc của mình chủ động trình
bày các công việc cụ thể của mình đã được lãnh đạo nhà trường và lãnh đạo phòng
phân công. Trình bày rõ công việc đã làm được, công việc chưa làm được, khó
khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Sau đó, các cán bộ, viên chức trong
phòng thảo luận, đóng góp ý kiến. Các ý kiến bổ sung, góp ý phải phù hợp với
quy chế của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và quy định của nhà trường
và tình hình thực tiễn. Trưởng phòng tiếp thu và giải trình. Vượt quá thẩm
quyền trưởng phòng có trách nhiệm báo cáo lên Ban Giám đốc xem xét giải quyết.
Phần này được xem là thống nhất về cách thức xử lý.
Đặc biệt, phòng thường xuyên cử một đồng chí ghi biên
bản cuộc họp sinh hoạt chuyên môn. Biên bản làm căn cứ pháp lý đồng thời là
chứng cứ để đi đến sự nhất trí, thống nhất về chuyên môn của phòng.
Thứ ba, về
không khí buổi sinh hoạt: Cán bộ, viên chức của phòng luôn phát huy tinh thần
dân chủ, tích cực, tự giác, sẵn sàng trao đổi, thảo luận, chia sẻ. Trao đổi với
nhau trên tình thần xây dựng, chân tình. Viên chức được đóng góp ý kiến nghiêm
túc và tiếp thu những phần được đóng góp.
Thứ tư, xây
dựng cơ chế phản biện, xem sau khi được đóng góp ý kiến thì hiệu quả xử lý công
việc của viên chức có thay đổi không? Viên chức được đóng góp ý kiến phải có sự
phản hồi lại thông tin để lãnh đạo phòng nắm được thực tiễn nội dung và phương
pháp xử lý công việc, cũng là để rút kinh nghiệm để những lần sinh hoạt chuyên
môn sau hiệu quả hơn nữa.
Trên đây là một số kinh nghiệm trong
sinh hoạt chuyên môn của phòng Đào tạo. Tác giả với mong muốn chia sẻ để nhận
được ý kiến đóng góp từ các đơn vị khoa, phòng để hoạt động chuyên môn của
phòng đạt hiệu quả hơn./.
Webside vovworld.vn..Bài viết: “Văn kiện Đại hội XII của
Đảng: Kinh tế tư nhân là động lực để phát triển đất nước”, tác giả Nguyễn Hằng.
HCM toàn tập, t12, tr.647, H 2011
|