banerchinh-ngay14-3-2021
Nhiệt liệt chào mừng 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại (19/5/1890-19/5/2025)!
Hỗ trợ trực tuyến
Nội san nhà trường

Nội san tháng 11/2016

Chủ đề: Vận dụng quan điểm của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII vào công tác giảng dạy tại trường Chính trị Trường Chinh; Kỷ niệm 34 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982-20/11/2016)

MỤC LỤC

 

1. Những chuyển biến mới trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định năm học 2015-2016

2. Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh

4. Quan điểm mới của Đảng và Nhà nước về quyền con người trong Văn kiện Đại hội XII

5. Xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam - từ đề cương văn hoá Việt Nam (1943) đến  Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII (2016)

6. Bổ sung, cập nhật quan điểm, chính sách của Đảng về khoa học, công nghệ trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính

7. Một số quan điểm của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vận dụng vào giảng dạy tại khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định

8. Những điểm mới về dân chủ trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng

9. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII

10. Trách nhiệm của giảng viên trường Chính trị Trường Chinh đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Nam Định giai đoạn hiện nay

11. Vai trò của đại biểu hội đồng nhân dân trong thực hiện chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân xã

12. Quan điểm về công tác dân vận trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII vận dụng vào công tác giảng dạy của trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định

13. Vận dụng quan điểm trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng về Nhà nước pháp quyền vào giảng dạy phần “Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN” ở trường Chính trị Trường Chinh

14. Một số tồn tại của văn phong ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định qua khảo sát thực tế

15. Nhận thức mới của Đảng ta về vai trò thành phần kinh tế tư nhân trong Văn kiện Đại hội XII

16. Hội thi học viên học giỏi lý luận chính trị lần thứ Nhất - kết quả và kinh nghiệm

17. Bác Hồ với sự nghiệp giáo dục - đào tạo và “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”

18. Đoàn thanh niên trường Chính trị Trường Chinh với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

19. Một số kinh nghiệm trong hoạt động chuyên môn của phòng Đào tạo

 

 

NỘI DUNG BÀI VIẾT

 

 

NHỮNG CHUYỂN BIẾN MỚI TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO,

BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CỦA TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH TỈNH NAM ĐỊNH NĂM HỌC 2015-2016

 

ThS. Phạm Thị Thanh Thủy

   TUV, Bí thư Đảng uỷ, Giám đốc

 

 

Năm học 2015-2016 là năm học đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015-2020, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TU ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định đã có những chuyển biến tích cực trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và đạt những kết quả quan trọng.

Thứ nhất: trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo

                Ban Chấp hành Đảng bộ nhà trường đã xây dựng và ban hành Nghị quyết số 06-NQ/ĐU ngày 24/3/2016 về tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại trường Chính trị Trường Chinh.

Đây là Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng uỷ nhà trường nhiệm kỳ 2015-2020. Xác định, muốn nâng cao chất lượng đào tạo, trước hết cần nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên, Nghị quyết đã đưa ra các nhóm giải pháp nhằm giữ vững và nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường.

Thứ hai: đổi mới công tác quản lý chuyên môn

Ban Giám đốc đã chỉ đạo các khoa xây dựng giáo án mẫu, giáo án bổ trợ của các môn học. Các giáo án bảo đảm theo đúng quy định về giáo án mẫu của Học viện và có sự điều chỉnh phù hợp với đối tượng học viên của từng lớp, nội dung kiến thức vừa bảo đảm kiến thức cơ bản vừa bảo đảm kiến thức thực tiễn, đặc biệt là thực tiễn của địa phương. Các giáo án phải bảo đảm cân đối giữa các phần: dạy lý thuyết, trao đổi, thảo luận trên lớp, hướng dẫn học viên tự học, tự nghiên cứu. Hàng năm, nhà trường và các khoa tổ chức kiểm tra, đánh giá giáo án của giảng viên, chú ý giáo án của các chương trình mới và của giảng viên trẻ; triển khai lấy phiếu phản hồi từ người học và đánh giá của các đơn vị phối hợp mở lớp đối với giảng viên.

            Nhà trường chỉ đạo các khoa duy trì nề nếp hoạt động chuyên môn, tổ chức các buổi trao đổi, toạ đàm, nhất là đối với các bài giảng mới, những nội dung có sự cập nhật kiến thức, văn bản mới để giúp giảng viên kịp thời   tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình chuẩn bị bài giảng.

Hoạt động thao giảng, dự giờ được nhà trường chú trọng. Hàng năm đều tổ chức thao giảng 2 cấp: cấp khoa với toàn bộ đội ngũ giảng viên. Căn cứ kết quả thao giảng cấp khoa, chọn giảng viên thao giảng cấp trường và cấp cao hơn. Năm học vừa qua, nhà trường đã chọn cử 02 giảng viên tham dự Hội thi giảng viên dạy giỏi trung cấp chuyên nghiệp tỉnh Nam Định, kết quả cả 02   đồng chí đều đạt danh hiệu giảng viên dạy giỏi cấp tỉnh (1 giải Nhất, 1 giải Ba); cử 01 giảng viên tham gia Hội thi giảng viên giảng dạy lý luận chính trị giỏi trong lực lượng vũ trang cấp thành phố và đạt giải Nhì.

          Thứ ba: tiếp tục thực hiện chủ trương đa dạng hoá hình thức và loại hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

          Xuất phát từ yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh, nhiều năm qua, nhà trường đã thực hiện đa dạng hoá hình thức và loại hình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với yêu cầu của tỉnh. Ngoài chương trình Trung cấp chính trị - hành chính, nhà trường đã mở 2 mã ngành đào tạo Trung cấp chuyên nghiệp do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý. Hình thức đào tạo gồm cả tập trung và không tập trung. Thời gian học được tổ chức linh hoạt, cả trong giờ, ngoài giờ; lớp học theo kỳ 1 tuần/tháng, lớp học 2 ngày/tuần... phù hợp với nhiều đối tượng người học là cán bộ, công chức. Từ năm 2013 đến nay, số lượng lớp Trung cấp chính trị - hành chính mở mới mỗi năm tăng lên gấp từ 2 đến 3 lần so với trước đây.

  Năm học 2015 - 2016, nhà trường đã giảng dạy và phục vụ giảng dạy cho  79 lớp với 7.861 học viên (năm học 2014 - 2015 là 65 lớp với 6.645 học viên). Trong đó có 49 lớp Trung cấp chính trị - hành chính với 4.649 học viên, 3 lớp Trung cấp Pháp luật với 221 học viên, 4 lớp Cao cấp lý luận chính trị với 382 học viên, 23 lớp bồi dưỡng với 2.609 học viên, gồm: bồi dưỡng ngạch      chuyên viên, chuyên viên chính, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, bồi dưỡng đối tượng Đảng và đảng viên mới. Số lớp Trung cấp chính trị - hành chính khai giảng trong năm học 2015-2016 là 21 lớp với 1.928 học viên.

Thứ tư: đổi mới hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế theo hướng thiết thực, hiệu quả, phục vụ trực tiếp cho hoạt động giảng dạy

Năm học 2015- 2016 là năm các hoạt động nghiên cứu khoa học của    nhà trường diễn ra rất tích cực. Năm 2015, đã hoàn thành 02 đề tài khoa học cấp trường. Năm 2016, đang triển khai thực hiện 7 đề tài khoa học cấp trường và cấp khoa. Tổ chức 3 Hội thảo, toạ đàm khoa học cấp trường, 7 Hội thảo khoa học cấp khoa. Hội đồng khoa học nhà trường đã chỉ đạo biên soạn, nghiệm thu và đưa vào giảng dạy Tập bài giảng tình hình, nhiệm vụ địa phương.

Việc tổ chức đi nghiên cứu thực tế khá đa dạng: đi theo tập thể khoa, phòng; kết hợp các khoa, phòng; đi theo tổ chức đoàn thể; đi nghiên cứu cùng học viên các lớp; đi theo nhóm; đi cá nhân. Nhà trường đang xây dựng Đề án luân chuyển giảng viên đi thực tế dài ngày tại cơ sở. Thông qua hoạt động nghiên cứu thực tế, đội ngũ giảng viên được bổ sung nhiều kiến thức thực tiễn quý báu cho bài giảng, gắn lý luận với thực tế.

  Thứ năm: coi trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên

Nhà trường nhận thức: đội ngũ giảng viên là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng giảng dạy, là lực lượng nòng cốt khẳng định uy tín, vị thế của nhà trường. Vì vậy, trong những năm qua, nhà trường đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên bằng nhiều biện pháp, như: Nâng cao chất lượng tuyển chọn giảng viên: tham mưu xây dựng và thực hiện quy chế xét tuyển giảng viên đảm bảo chất lượng đầu vào: chỉ tuyển những người tốt nghiệp đại học chính quy, đúng chuyên ngành đạt loại khá trở lên; có chứng chỉ sư phạm, tin học, ngoại ngữ; tổ chức sơ tuyển và hợp đồng thử việc; ưu tiên tuyển dụng những người có trình độ sau đại học, đã làm công tác giảng dạy ở các cơ sở đào tạo; tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích giảng viên, nhất là giảng viên trẻ đi đào tạo cao học, nghiên cứu sinh và tham dự các khoá bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ; tăng cường bổ sung kiến thức thực tiễn cho giảng viên...

Bằng những biện pháp trên, đến nay đội ngũ giảng viên của nhà trường về cơ bản đủ về số lượng, trình độ chuyên môn từng bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

Thứ sáu: tổ chức thành công Hội thi học viên học giỏi lý luận chính trị lần thứ Nhất - năm 2016

Hội thi được tổ chức vào ngày 18, 19 tháng 5 năm 2016, thu hút đông đảo học viên các lớp tham gia. Hội thi đã huy động sự phối hợp công tác giữa các trường Chính trị trong cụm thi đua số 04 (các trường Chính trị trong cụm thi đua cử đại diện tham gia Ban Giám khảo Hội thi). Việc tổ chức Hội thi cũng đã nhận được sự đánh giá cao của lãnh đạo Học viện, Vụ các trường Chính trị Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, lãnh đạo các trường Chính trị trong cụm thi đua số 04 và các đơn vị trong Khối thi đua các cơ quan Đảng thuộc Tỉnh ủy Nam Định.

Thứ bảy: phong trào thi đua và công tác khen thưởng có nhiều nét khởi sắc

Năm học 2015-2016, trường Chính trị Trường Chinh vinh dự được giao đảm nhận vai trò Cụm trưởng Cụm thi đua số 04 - các trường Chính trị khu vực Đồng bằng sông Hồng, Trưởng khối thi đua các cơ quan Đảng thuộc Tỉnh ủy Nam Định, hướng tới kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường, nhà trường đã phát động và tổ chức nhiều hoạt động chào mừng. Phong trào thi đua đã có những bước chuyển biến tích cực, từng đơn vị, cá nhân tự giác đăng ký và thực hiện nội dung thi đua. Công tác khen thưởng tương đối kịp thời, hình thức trao thưởng được chú ý, tôn vinh các danh hiệu thi đua, quan tâm đến người lao động trực tiếp, có tác dụng lan toả trong cán bộ, công chức, viên chức.

            Từ những kết quả đạt được, trường Chính trị Trường Chinh vinh dự được nhận Cờ thi đua xuất sắc của UBND tỉnh và của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong năm học 2015-2016.

            Mỗi cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà trường tràn đầy niềm tự hào phấn khởi tin tưởng vào sự phát triển bền vững của nhà trường. Tiếp bước thành tích đã đạt được, tập thể nhà trường với quyết tâm chính trị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ viết tiếp trang sử truyền thống của trường Chính trị Trường Chinh./.

 

 

 

TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN

TRONG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

 

ThS. Hoàng Đình Trung

    Phó Giám đốc

 

            Thực tiễn cách mạng ở nước ta đã chứng minh rằng: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới, Đảng phải không ngừng đổi mới nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích và đề xuất một số giải pháp tăng cường mối quan hệ với nhân dân trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

            Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là ở chỗ mọi quyền lực xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể duy nhất của mọi quyền lực trong xã hội. Trong nền dân chủ đó, quyền lực của Nhà nước và của Đảng đều có nguồn gốc của từ quyền lực nhân dân. Đảng và Nhà nước không có bất cứ quyền lực tự thân, bản chất của quyền lực đó là quyền lực “phái sinh” từ quyền lực của nhân dân. Xuất phát từ bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước đều nhằm mục đích phát huy quyền làm chủ và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân. Để thực hiện được mục đích đó, Đảng phải liên hệ, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phải dựa vào dân để lãnh đạo, bởi lẽ “không có phong trào cách mạng của nhân dân thì không có sự ra đời của Đảng, không có sự ôm ấp, đùm bọc, che chở, bảo vệ của nhân dân thì không có sự tồn tại, phát triển của Đảng”[1]. Tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân được coi là nguyên tắc cốt tử trong lãnh đạo của Đảng.

Tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm này trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII “phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng…, tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân”[2]. Đây là một trong năm bài học được Đảng ta rút ra sau 30 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới, là điều kiện bảo đảm củng cố vai trò lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.

            Tăng cường, củng cố mối quan hệ với nhân dân, dựa vào nhân để thực hiện vai trò lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục mở rộng dân chủ với nhiều hình thức để nhân dân được tham gia đóng góp ý kiến, phải bảo đảm “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia đóng góp ý kiến[3]. Những vấn đề còn lại ở chỗ, đã đến lúc nhân dân không chỉ tham gia đóng góp ý kiến ở khâu xây dựng nghị quyết, quyết định của Đảng, của cấp ủy mà còn phải phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong quá trình tổng kết, sơ kết việc thực hiện nghị quyết, quyết định đã được ban hành thông qua các kênh khác nhau, trong đó có việc tổ chức thăm dò dư luận xã hội từ nhân dân. Do đó, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng ta khẳng định “Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân[4].

Đảng ta từ nhân dân mà ra, được nhân dân giúp đỡ, che trở. Vì vậy, Đảng phải dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong mọi giai đoạn lịch sử Đảng ta phải xác định “Xây dựng Đảng không chỉ là công việc của Đảng mà là công việc của nhân dân, trách nhiệm của nhân dân”[5]. Tăng cường mối quan hệ với nhân dân, Đảng phải có quy định và cơ chế cụ thể để động viên nhân dân, bảo đảm điều kiện để nhân dân tích cực tham gia vào công tác xây dựng Đảng một cách thường xuyên và thực chất.

Quan trọng nhất là cấp ủy Đảng phải dựa vào nhân dân, lắng nghe nhân dân, lấy đánh giá từ nhân dân, từ việc xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến đề bạt, bổ nhiệm cán bộ vào vị trí lãnh đạo quản lý. Nếu nhân dân không được thực hiện một cách thường xuyên và thực chất việc đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên, đáng giá sự lãnh đạo của cấp ủy thì nhân dân không thể gắn bó với Đảng. Đây là nguyên nhân dẫn tới bệnh quan liêu, suy thoái lối sống, đạo đức của bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng hiện nay ở nước ta.

            Cùng với đó, nhân dân gắn bó, tin tưởng vào sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng khi cấp ủy có trách nhiệm và sẵn sàng chịu trách nhiệm trước nhân dân về quyết định lãnh đạo của mình. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc là Đảng được nhân dân giao quyền lãnh đạo, đại diện nhân dân thực hiện chức năng lãnh đạo xã hội. Bản chất của quan hệ giữa Đảng và nhân dân là quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền. Tuy nhiên, phải thẳng thắn nhận thấy rằng, việc cấp ủy Đảng phải trách nhiệm trước nhân dân về sự lãnh đạo phần lớn chỉ dừng ở lý luận, ở những quy định chung. Trên thực tế, còn thiếu quy định và hướng dẫn cụ thể về việc xác định trách nhiệm và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đây là nguyên nhân của sự lạm quyền, thoát ly khỏi quyền lực gốc, quyền lực của nhân dân trong quá trình lãnh đạo, quản lý của cấp ủy, chính quyền đã và đang diễn ra ở một số địa phương. Dẫn tới tình trạng “quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm[6] đã được Đảng ta thắng thắn chỉ ra trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.

            Mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân được Đảng ta xác định và thực hiện trong suốt 85 năm lãnh đạo cách mạng nước ta. Điều đó đem lại cho Đảng sức mạnh to lớn cho Đảng, bảo đảm điều kiện để Đảng ta có đủ năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu để chèo lái con thuyền cách mạng nước ta trải qua bao khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước và đổi mới.

Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy mối quan hệ gắn bó với nhân dân trong lãnh đạo của Đảng, nhất là cấp ủy các cấp từ tỉnh đến huyện còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát huy vai trò làm chủ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Vai trò làm chủ của nhân dân trong quá trình lãnh đạo của cấp ủy chưa được phát huy đầy đủ.

Quy trình xây dựng nghị quyết, quyết định lãnh đạo của cấp ủy nhìn chung còn khép kín trong nội bộ, chưa thực sự lắng nghe tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân. Điều đó dẫn tới, Có lúc, có nơi, có việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức[7]. Trong thực tế, một số nghị quyết, quyết định lãnh đạo của cấp ủy ở các địa phương chưa thực sự xát với thực tế, chưa phản ánh kip thời tâm tư, nguyện vong của nhân dân, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội và quá trình sản xuất ở cơ sở. Niềm tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của cấp ủy vì thế đang đứng trước những thách thức lớn.

Trong công tác xây dựng Đảng, yêu cầu dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, quản lý cán bộ, đảng viên hiệu quả thực hiện chưa cao, không ít nơi còn mang tính hình thức. Còn thiếu quy định và cơ chế cần thiết và đồng bộ bảo đảm điều kiện để nhân dân tham gia đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, hiệu quả lãnh đạo của tập thể cấp ủy, cũng như người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp. Cùng với đó, phải thừa nhận rằng, còn thiếu quy định và cơ chế để xác định trách nhiệm và chịu trách nhiệm của cấp ủy trước nhân dân. Trong thực tế, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy ở những địa phương, đơn vị để xảy ra những sai phạm, tồn tại trong quản lý của cá nhân, tổ chức chưa thực sự rõ ràng. Điều đó, làm giảm mất niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng.

            Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Theo chúng tôi, cấp ủy Đảng các cấp cần phải bổ sung những nội dung trong quy chế hoạt động những quy định cụ thể để nhân dân được tham gia nhiều hơn và thực chất vào quá trình xây dựng nghị quyết, quyết định lãnh đạo, nhất là đối với những vấn đề lớn, liên quan đến lợi ích và đời sống của nhân dân. Cần  xây dựng và ban hành các hướng dẫn trong đó xác định rõ những nội dung nào, công việc nào phải tổ chức để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến; quy trình tổ chức lấy ý kiến của nhân dân; quy định về xử lý thông tin và sử dụng ý kiến của nhân dân; trách nhiệm của người đứng đầu và cấp ủy khi không thực hiện nghiêm túc nội dung. Có như vậy, mới bảo đảm quá trình dân chủ hóa trong hoạt động của cấp ủy Đảng đi vào thực chất.

Bên cạch đó, cấp ủy nhất là cấp tỉnh và huyện cần nghiên cứu bổ sung quy định về việc tổ chức thăm dò dư luận xã hội về chất lượng cán bộ và quyết định lãnh đạo trong quy chế hoạt động. Nội dung thăm dò dư luận cần tập trung vào công tác cán bộ, đánh giá chất lượng lãnh đạo thực hiện các nghị quyết của cấp ủy. Điều quan trọng là phải quy định, chế tài bảo đảm những kết quả của thăm dò dư luận phải là cơ sở quan trọng cho công tác xây dựng đến sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, thực hiện công tác cán bộ của cấp ủy. Đồng thời, đã đến lúc, phải có quy định và hướng dẫn thực hiện cụ thể để có thể xác định trách nhiệm và chịu trách nhiệm của cấp ủy Đảng trước nhân dân về những tồn tại, hạn chế trong trong hoạt động quản lý của Nhà nước, của chính quyền các cấp.

Trong những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng của thực hiện mối quan hệ mất thiết giữa Đảng với nhân dân. Đảng ủy trường Chính trị Trường Chinh luôn quan tâm tới mở rộng dân chủ, phát huy vai trò làm chủ của cán bộ, giảng viên, nhân viên trong quá trình lãnh đạo. Công tác cán bộ từ khâu xây dựng quy hoạch đến quy trình bổ nhiệm, luân chuyển đều bảo đảm tính dân chủ. Trong năm 2016, Đảng ủy ban hành 2 Nghị quyết chuyên đề, quá trình xây dựng nghị quyết trên thể hiện rõ tính dân chủ, bảo đảm mọi cán bộ, đảng viên được nghiên cứu, tham gia đóng góp ý kiến. Từ đó, khối đoàn kết được giữ vững, sự đồng thuận trong triển khai kế hoạch được bảo đảm.

Đồng thời, với trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của tỉnh, Đảng ủy, Ban Giám đốc luôn chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn. Thông qua đó, đội ngũ giảng viên chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức đi nghiên cứu, khảo sát thực tiễn nắm bắt tình hình thực tế, tâm tư, nguyện vong, những tồn tại, vướng mắc của nhân dân ở các địa phương trong tỉnh. Trên cơ sở đó, đưa vào bài giảng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, tích cực tham gia đóng góp ý kiến vào Nghị quyết Đại hội và Nghị quyết chuyên đề của tỉnh./.

 

 

 

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

VỀ XÂY DỰNG CHI BỘ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH

                                                  

                                                            TS. Đới Văn Tặng 

                                                        Trưởng khoa Xây dựng Đảng

 

 Xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh trở thành hạt nhân chính trị ở cơ sở luôn là vấn đề quan trọng cả trong lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng của giai cấp công nhân. Từ rất sớm, các nhà kinh điển Mác xít đã nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của vấn đề này và chỉ ra rằng, tổ chức cơ sở đảng là toàn bộ công tác và sức chiến đấu của Đảng, là nền móng của Đảng và là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Ngay từ buổi đầu, khi đề xuất tư tưởng xây dựng chính đảng của giai cấp vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh việc xây dựng hệ thống tổ chức của Đảng phải từ dưới lên trên, từ chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ đến cơ quan lãnh đạo tối cao là Ban Chấp hành Trung ương và đại hội đại biểu của Đảng.

Trên cơ sở tiếp thu những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chính đảng của giai cấp vô sản, trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những vấn đề Hồ Chí Minh đặt ra là công tác xây dựng chi bộ. Theo chỉ dẫn của Người, Đảng muốn mạnh trước nhất phải có mạng lưới chi bộ vững mạnh. Bởi vì, chi bộ là hạt nhân nòng cốt, là nền tảng của tổ chức Đảng ở cơ sở, cho nên phải thường xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng, mà trọng tâm là công tác xây dựng chi bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của chi bộ Đảng đối với công tác xây dựng Đảng và của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, mà Người còn đi sâu phân tích và đưa ra những luận điểm mới về công tác xây dựng chi bộ.

Những luận điểm của Hồ Chí Minh về công tác xây dựng chi bộ, trong đó phương thức xây dựng chi bộ trở thành hạt nhân chính trị ở cơ sở, được Hồ Chí Minh coi trọng. Trước hết xuất phát từ những nguyên lý chung - nguyên lý Mác xít về vấn đề xây dựng Đảng Cộng sản và ngay từ nhận thức ban đầu, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng không phải là tổ chức để làm quan phát tài, và Người khẳng định: sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ chức tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Sức mạnh của các tổ chức liên quan chặt chẽ với nhau. Trong hệ thống tổ chức của Đảng, phải tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là xương sống chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng. Điều này đòi hỏi tổ chức đảng cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, chống mọi biểu hiện bản vị, gia trưởng, địa phương cục bộ... Điều đó cũng đòi hỏi chế độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng rộng rãi, tạo tiền đề cho dân chủ xã hội.

Xuất phát từ nhận thức về vị trí, vai trò của chi bộ Đảng trong xây dựng hệ thống cơ cấu tổ chức của Đảng ta, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, phải tổ chức các chi bộ Đảng sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình ở Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm đa số trong dân chúng, giai cấp công nhân còn nhỏ yếu. Không những thế, trong từng giai đoạn cách mạng, yêu cầu nhiệm vụ và hình thức tổ chức của chi bộ Đảng cũng thay đổi cho phù hợp. Vai trò của chi bộ dù ở giai đoạn cách mạng nào cũng là hạt nhân. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chi bộ là đồn luỹ của Đảng chiến đấu ở trong quần chúng”[8]; “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở trong quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì công việc không trôi chảy”[9]. Đó là quan niệm chuẩn xác của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò hạt nhân của chi bộ đảng trong hệ thống tổ chức Đảng. Để củng cố, kiện toàn, phát huy vai trò của chi bộ đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh căn dặn, phải không ngừng hoàn thiện phương thức hoạt động, lề lối làm việc cho phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của từng loại đơn vị cơ sở. Chẳng hạn, với chi bộ ở cơ quan, Người yêu cầu: “Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình...”; “mỗi một đảng viên phải xung phong làm gương mẫu trong mọi việc”[10]. Đối với Chi bộ ở nông thôn, phải có hình thức tổ chức, nội dung sinh hoạt, phương thức lãnh đạo phải khác với các chi bộ ở cơ quan, đơn vị hành chính, các chi bộ công nhân trong nhà máy, xí nghiệp.v.v.. Người chỉ dẫn: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở nông thôn. Chi bộ vững mạnh thì mọi chính sách của Đảng và Chính phủ nhất định thi hành được tốt. Muốn vững mạnh, thì tất cả đảng viên trong chi bộ phải thật thà đoàn kết nhất trí[11]. Như vậy, theo Người, trong công tác tổ chức lãnh đạo của Đảng, cần phải hết sức chú ý đến tính đặc thù trong công tác xây dựng chi bộ ở các đơn vị, lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Theo Hồ Chí Minh, tất thảy: “Là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, thì dù xuất thân từ thành phần khác nhau, cũng đều chung một đại gia đình cách mạng, đều chung một mục đích là xây dựng chủ nghĩa xã hội, đều chung một lập trường là lập trường của giai cấp công nhân”[12]. Sinh thời, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ trong quan hệ với hệ thống tổ chức của Đảng, quan hệ với các tổ chức của hệ thống chính trị và quan hệ trực tiếp với nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, cần xác định vai trò của chi bộ trong ba loại quan hệ chủ yếu, đồng thời cần hết sức chú trọng trong quan hệ sự tương tác giữa chi bộ với các đối tượng khác.

Một là, đối với bản thân Đảng, chi bộ là tổ chức hạt nhân quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy, theo Hồ Chí Minh: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”[13]. Do đó: “cần phải ra sức củng cố các chi bộ, để tất cả các chi bộ trở nên thật sự là hạt nhân lãnh đạo của Đảng ở mọi bộ, mọi ngành, mọi nghề, mọi nơi”[14].

Hai là, quan hệ giữa chi bộ và đảng viên; chất lượng đảng viên quyết định chất lượng chi bộ; chi bộ là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên. Hồ Chí Minh xác định: “Đảng viên tốt thì chi bộ mới tốt. Muốn đảng viên tốt thì chi bộ phải thường xuyên giáo dục mỗi đồng chí. Nhiệm vụ của đảng viên là gì? Tư cách của đảng viên là thế nào? Đồng thời giúp đỡ đảng viên hằng ngày tự kiểm điểm mình”[15].

Ba là, vai trò của chi bộ ở các khu vực dân cư, địa bàn sinh sống, trong quan hệ giữa Đảng và quần chúng. Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh chỉ dẫn, trong quan hệ với quần chúng, chi bộ là cầu nối giữa Đảng và quần chúng, Người chỉ rõ: “Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng. Nhiệm vụ của chi bộ là: luôn luôn tuyên truyền cho nhân dân và tổ chức nhân dân, để thực hiện khẩu hiệu, chính sách của Đảng; luôn luôn chú ý đến tư tưởng và nhu cầu của nhân dân và kịp thời báo cáo cho cấp trên biết rõ; luôn luôn quan tâm đến đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa của nhân dân, đồng thời giáo dục nhân dân, tổ chức nhân dân để giải quyết các vấn đề cho nhân dân, chỉ có làm đầy đủ những công việc ấy, thì Đảng mới liên hệ chặt chẽ với quần chúng”[16].

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ đảng viên, nhất là các cấp ủy Đảng, với tư cách là người lãnh đạo, phải có ý thức coi trọng công tác xây dựng tổ chức chi bộ ở cơ sở. Bởi chi bộ là sợi dây, là chiếc cầu nối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Chỉ khi xây dựng được hệ thống tổ chức chi bộ tốt, Đảng mới xây dựng được mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tạo nên niềm tin, nguồn sức mạnh, sự thống nhất của toàn Đảng, toàn dân. Sức mạnh của nhân dân được Hồ Chí Minh đúc kết: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong[17]. Một trong những phương châm Hồ Chí Minh chỉ đạo để xây dựng chi bộ vững mạnh, trở thành chiếc cầu nối thực sự giữa các cấp ủy đảng với hệ thống chính trị và nhân dân là công tác chỉnh đốn, tự phê bình và phê bình trong Đảng. Vấn đề “thanh đảng” có thể phù hợp với một số đảng chính trị cầm quyền trên thế giới, nhưng ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ chủ trương “chỉnh đốn Đảng”, coi đó là cách làm phù hợp, trở thành nhu cầu tồn tại và phát triển của Đảng. Vấn đề cốt lõi là ở chỗ: “Chi bộ tốt là do các đảng viên tốt”, do đó, Người đặc biệt chăm lo xây dựng đội ngũ cốt cán trong các chi bộ cơ sở. Chính Người đã khởi xướng cuộc vận động xây dựng “Chi bộ bốn tốt”; “Đảng bộ bốn tốt” và trực tiếp lãnh đạo, tổ chức, duy trì, đẩy mạnh phong trào này trong toàn Đảng cho đến phút cuối đời. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn, muốn Đảng thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có đủ năng lực lãnh đạo, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng, mỗi cán bộ đảng viên, từ Trung ương đến các chi bộ, “cần phải đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc”; “phải giữ gìn đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[18]. Để làm được điều đó: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[19].

Những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh đã được Đảng ta nhận thức một cách sâu sắc và vận dụng vào công tác xây dựng Đảng, khẳng định vai trò, vị trí và tầm quan trọng của chi bộ và tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng chi bộ trở thành hạt nhân lãnh đạo: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”[20]. Trong nhiều văn kiện quan trọng, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Tất cả các đảng bộ, chi bộ ở cơ sở đều nắm vững và thực hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở”[21]. Tiếp tục khẳng định vai trò hạt lãnh đạo của chi bộ và tổ chức cơ sở đảng, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII nhấn mạnh: “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, gần dân, sát dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng… kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước”.

Từ những nguyên lý về xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp vô sản mà Mác - Lênin đã nêu ra, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo vào xây dựng Đảng ta và với nhãn quan chính trị sâu rộng, nhạy bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quyết định sáng suốt về hình thức tổ chức bộ máy, phương thức lãnh đạo, cũng như hoạt động của Đảng nói chung và của chi bộ nói riêng. Chính nhờ có sự linh hoạt, sáng tạo về hình thức tổ chức và phương thức hoạt động như vậy, mới bảo đảm cho hoạt động của Đảng được thông suốt, mau lẹ, kịp thời, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Những hình thức tổ chức, hoạt động của Đảng do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, mang tính sáng tạo cả về lý luận và vận dụng thực tiễn, chứ không thuần túy chỉ là sự kế thừa các hình thức tổ chức đã có trước đó, nhất là trên phương diện tư duy lý luận. Theo quan điểm của Người, điều quan trọng để xây dựng được một chi bộ tốt, trở thành hạt nhân lãnh đạo, thành cầu nối thực sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân, phải hết sức chú trọng đến việc đổi mới công tác tổ chức chi bộ. Để có thể làm tốt được nhiệm vụ đó, về mặt lãnh đạo phải thấm nhuần quan điểm lý luận phù hợp với thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo kết quả; phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ, đặc thù, hoàn cảnh của từng chi bộ, chú trọng các mối quan hệ chủ yếu của chi bộ. Để nâng cao sức mạnh của chi bộ, trước hết phải chú ý đến chất lượng đảng viên, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ, đảng viên, bên cạnh đó, công tác kiểm tra của Đảng phải được coi trọng và thường xuyên; công tác phê bình và tự phê bình nhằm phát huy tinh thần dân chủ của đảng viên trong chi bộ; đổi mới sinh hoạt chi bộ cả về hình thức và nội dung, thời gian sinh hoạt chi bộ, sao cho sát hợp với từng cơ sở, đối tượng, v.v.. Chỉ có như vậy, công tác xây dựng Đảng mới có hiệu quả, Đảng mới đảm bảo được vai trò lãnh đạo của mình, hoàn thành sứ mệnh cách mạng và trọng trách mà nhân dân tin tưởng giao phó./.

 

QUAN ĐIỂM MỚI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC

VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XII

 

ThS. Hồ Thị Lý

Giảng viên khoa Nhà nước và pháp luật

 

Ai sinh ra trên thế giới đều được hưởng món quà của tạo hóa đó là quyền con người. Tư tưởng này được thể hiện trong bản tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ năm 1776 đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong trong Bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 2/9/1945: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

            Trải qua lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc vô cùng gian khổ, hy sinh, nhân dân Việt Nam hiểu sâu sắc giá trị của độc lập, tự do, khát vọng về quyền được sống, quyền mưu cầu hạnh phúc…Đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta trong suốt các thời kỳ cách mạng đều tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khẳng định việc phát triển và bảo vệ quyền con người trong thời kỳ mới. Văn kiện xác định: “Bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013”[22]. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân, theo hướng: “Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý, phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững…Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”[23].

Mục tiêu tổng quát đề ra là: phát triển kinh tế nhanh và bền vững nhằm “nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”[24]. Có thể nói, phát triển kinh tế là một trong những tiền đề quan trọng nhất cho việc thực thi dân chủ và quyền con người. Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường chính là thực hiện quyền con người về kinh tế, văn hoá và xã hội. Do vậy, Đảng xác định đi đôi với tăng trưởng kinh tế phải thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển nhằm đảm bảo cơ hội sống và phát triển cho người dân.

Tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng ta nhận thấy rằng: Trong một thời kỳ dài do quá chú trọng vào tăng trưởng kinh tế ít chú trọng đến vấn đề môi trường nên hiện tượng tài nguyên chưa được quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền vững; một số tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt. Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng. Chính vì thế một trong những nhiệm vụ quan trọng được Đảng ta xác định là: “tăng cường quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu”[25]. Rõ ràng việc chuyển hướng phát triển kinh tế từ phát triển dựa vào khai thác tài nguyên sang mô hình phát triển bền vững bảo vệ môi trường thể hiện rõ quan điểm của Đảng trong việc ưu tiên bảo đảm các quyền con người.

Trong bối cảnh “tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp…cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến phức tạp trên Biển Đông…”[26], Đảng xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là phải: “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội”[27]. Đây là nhiệm vụ hàng đầu để đảm bảo quyền con người trong thực tiễn. Lịch sử Việt Nam và nhiều nước trên thế giới đã trải qua đã chứng minh, đất nước bị lệ thuộc thì người dân không thể có tự do, các quyền con người sẽ bị chà đạp nghiêm trọng.

Như vậy, có thể thấy rằng quan điểm của Đảng và Nhà nước thể hiện trong Văn kiện Đại hội XII đã khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người thông qua việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi biện pháp cụ thể nhằm phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, để người dân có cuộc sống ngày càng đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần; xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy quyền con người trên đất nước Việt Nam.

Để đảm bảo cho quyền con người được thực thi trong thực tế thì công tác tuyên truyền giáo dục quyền con người là ưu tiên hàng đầu trong công tác nhân quyền. Ở trường Chính trị trong cả nước nói chung và trường Chính trị Trường Chinh Nam Định nói riêng việc quán triệt quy định mới về quyền con người trong Văn kiện Đại hội XII vào giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính có ý nghĩa quan trọng giúp cho giảng viên và học viên nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề nhân quyền trong bối cảnh toàn cầu hoá. Giảng viên cần chú trọng giới thiệu quy định mới về quyền con người, khẳng định quan điểm của Đảng và Nhà nước về mở rộng quyền và đảm bảo thực hiện quyền con người cho học viên đặc biệt học viên là cán bộ, công chức trong các cơ quan công quyền. Cán bộ, công chức là những người hơn ai hết phải hiểu rõ về các quyền con người, bởi vì họ là chủ thể chủ yếu có trách nhiệm bảo vệ các quyền con người nhưng đồng thời cũng là chủ thể có nhiều khả năng nhất trong việc vi phạm các quyền con người.

Trong bối cảnh của một thế giới đa dạng hệ tư tưởng và các nền văn hoá dẫn đến có nhiều sự khác biệt về quan điểm, về cách thức hiện thực hoá các quyền con người thì việc giáo dục quyền con người được đề cao nhằm giúp các cấp các ngành giải quyết thoả đáng nhiều vấn đề nhân quyền phức tạp, đồng thời nhằm nâng cao tri thức nói chung giúp người dân có thể tự bảo vệ và thúc đẩy các quyền hiến định của mình./.

 

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM - TỪ ĐỀ CƯƠNG

VĂN HÓA VIỆT NAM (1943) ĐẾN VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ XII (2016)

 

 

ThS. Trần Thị Huyền Nga

Giảng viên khoa Xây dựng Đảng

 

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam luôn được Đảng nhận thức là một mặt trận quan trọng, chính sách lớn trong chiến lược phát triển của quốc gia dân tộc. Do hoàn cảnh lịch sử quy định, cho nên quan điểm xây dựng, phát triển nền văn hóa, con người của Đảng cũng in đậm dấu ấn lịch sử, thể hiện khá rõ trong nội dung nhiều văn kiện chính trị lớn.

Trong Đề cương văn hóa Việt Nam 1943, Đảng ta nêu quan niệm về văn hóa bao gồm: tư tưởng, học thuật (khoa học) và nghệ thuật (văn học, nghệ thuật) với vai trò: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” và chỉ rõ “nền tảng kinh tế  của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia[28]. Đề cương văn hóa đã thực sự đem lại một bước tiến mới về chất so với các phương pháp tiếp cận đương thời về văn hóa Việt Nam. Dựa vào nguyên tắc lấy hiện thực lịch sử làm tiền đề, Đề cương văn hóa đã xác định dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa là ba nguyên tắc vận động cho cuộc vận động văn hóa Việt Nam đương đại.  

Năm 1998, trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), Đảng ta tiếp tục hoàn thiện đường lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nếu như ở những thời kỳ trước đó, Đảng ta nhấn mạnh phạm vi và nội hàm của văn hóa chủ yếu ở lĩnh vực nhạy cảm, nhất là văn học, nghệ thuật (gọi tắt là văn nghệ), và đời sống văn hóa cụ thể, thì ở Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), lần đầu tiên phạm vi và nội hàm về văn hóa được đề cập gồm 8 lĩnh vực rộng lớn, không chỉ là văn nghệ mà là cả việc xây dựng môi trường văn hóa, xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống, phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, hệ thống thông tin, đại chúng, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và văn hóa dân tộc thiểu số, chính sách đối với tôn giáo, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, hoàn thiện thể chế văn hóa. Đây cũng là văn kiện đầu tiên của Đảng thời kỳ đổi mới đề cập đến một nhiệm vụ cụ thể hết sức quan trọng là xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.

Đến Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI), Đảng đã xác định xây dựng và phát triển văn hóa nhằm mục đích để đưa dân tộc Việt Nam phát triển và hạnh phúc. Nghị quyết đã khẳng định xây dựng và phát triển văn hóa phải gắn chặt với vấn đề xây dựng và phát triển con người Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Chỉ có phát triển bền vững mới bảo đảm cho dân tộc ta, đất nước ta giữ được độc lập, tự chủ, không bị lệ thuộc vào nước ngoài, mới bảo đảm cho chúng ta đứng vững và tiếp tục phát triển. Vì vậy, không thể thiếu vai trò của văn hóa, của con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực tinh thần to lớn của sự phát triển bền vững. 

Sau 18 năm từ khi Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII ra đời và 2 năm triển khai Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, tình hình thực tiễn phát sinh nhiều vấn đề mới.

            So với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ tầm mức để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng….

Vì vậy, yêu cầu tất yếu và cấp thiết đặt ra là phải thống nhất nhận thức, đổi mới tư duy, cách làm, huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển văn hóa, con người đất nước ở thời kỳ mới. Do đó, trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, một mặt Đảng ta khẳng định những quan điểm vừa cơ bản, vừa cấp bách để tiếp tục quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam được đề cập trong các văn kiện và Nghị quyết trước đây; đồng thời, có bước phát triển mới về mặt lý luận về quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại[29]. Tư duy lý luận mới về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XII được thể hiện ở một số vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, kế thừa và phát triển các quan điểm trên, lần đầu tiên trong báo cáo chính trị Đại hội XII (1-2016) đã gắn hai vấn đề văn hóa và con người với nhau thành một mục riêng, mục VII. Xây dựng, phát triển văn hóa và con người. Như vậy, trong văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đã thống nhất giữa hai mặt văn hóa và con người trong một chỉnh thể và được diễn đạt trong một mệnh đề.

Thứ hai, vận dụng những quan điểm của Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI vào điều kiện, yêu cầu 5 năm tới. Văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh:  phương hướng xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thuấn nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học…[30]. Đây là đặc trưng, thuộc tính cơ bản cho cả vấn đề văn hóa và con người. Điều đó cho thấy, tư duy lý luận mới của Đảng đã phản ánh đúng bản chất con người cũng như bản chất văn hóa. Vấn đề văn hóa thực chất là về con người và vấn đề con người thì kết tinh, cốt lõi nhất ở nội dung, giá trị văn hóa.

Thứ ba, tư duy lý luận mới của Đảng thể hiện sâu sắc về mối quan hệ giữa xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện với mục tiêu của chiến lược phát triển đất nước.

Sau 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam có bước chuyển biến quan trọng. Tuy nhiên, “so với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng;[31]. Vì vậy, nhằm phát huy những thành tựu và khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, Đại hội XII xác định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược  phát triển[32]. Quan điểm này là sự tiếp nối tư tưởng nhất quán của Đảng, coi con người là chủ thể và là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định sự phát triển xã hội và sự nghiệp cách mạng Việt Nam; mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới mục tiêu nhân văn cao cả là vì con người.

Thứ tư, tư duy lý luận mới của Đảng còn thể hiện ở quan niệm về xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ mới “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Làm cho giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi mặt hoạt động, mọi quan hệ xã hội, thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển bền vững.[33]. Quan điểm của Đảng thể hiện sự tiếp nối, khẳng định quan điểm về xây dựng mô hình nhân cách của con người Việt Nam được xác định trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI. Theo đó, vấn đề xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay phải hội tụ đầy đủ các đức tính: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của nhân dân; có tình thương yêu, đoàn kết, sống có nghĩa, có tình, trung thực, thẳng thắn, khiêm tốn, nếp sống trong sạch, lành mạnh, cầu thị tiến bộ và tinh thần trách nhiệm cao trong đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, phản văn hóa; có kiến thức toàn diện về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật; có tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo, ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong lời nói, việc làm của mình.

Thứ năm, trên cơ sở 6 nhiệm vụ cơ bản đối với quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước mà Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã nêu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII đã có sự bổ sung những vấn đề mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn.

Nếu như ở các văn kiện trước, vấn đề “xây dựng văn hóa trong kinh tế và chính trị” mới chỉ dừng lại ở những luận điểm chung, thì nay vấn đề này đã được Đảng ta chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể cần phải đạt được: “Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[34].

Trên cơ sở Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định đã ra Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 09 tháng 6 năm 2016 về “xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định”. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng được Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khẳng định: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; là cuộc vận động toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, nhằm tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ đảng viên, các tầng lớp nhân dân, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”.

Tư duy lý luận mới của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong Văn kiện Đại hội XII, và Nghị quyết số 07 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định không chỉ đáp ứng sự đòi hỏi thực tiễn đời sống xã hội nước ta hiện nay, mà còn là những định hướng lớn, mang tính chiến lược lâu dài xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Vì vậy, cần có sự nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, làm sáng tỏ hơn nữa, góp phần thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội XII và Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh vào cuộc sống./.

 

BỔ SUNG, CẬP NHẬT QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG

VỀ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ TRONG GIẢNG DẠY

CHƯƠNG TRÌNH TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

 

CN. Lê Tiến Dũng

Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu

 

Với nhiều quan điểm mới  phong phú, toàn diện và sâu sắc, Đại hội XII của Đảng xác định nội dung phát triển khoa học, công nghệ, là cơ sở cho quá trình hoạch định chủ trương, đường lối lãnh đạo sự nghiệp đổi mới giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo; Văn kiện Đại hội khoa học, công nghệ được đưa thành một mục riêng (Mục VI- Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ) mà không gộp vào với các vấn đề giáo dục đào tạo, văn hoá, môi trường như trong các Văn kiện Đại hội trước, cho thấy tầm quan trọng của khoa học, công nghệ và nhận thức mới của Đảng ta về phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính, nội dung quan điểm, đường lối, chính sách về khoa học, công nghệ được đề cập trong Bài 5, phần VI Môn học Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong bài, kiến thức lý luận, quan điểm về vấn đề khoa học, công nghệ được đề cập nghiên cứu chung với giáo dục và đào tạo, xác định giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ đều là quốc sách hàng đầu phù hợp với tinh thần quy định trong các văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng.

Quán triệt tư tưởng và để thể hiện nhận thức mới của Đảng tại Đại hội XII của Đảng trong đánh giá tầm quan trọng của khoa học, công nghệ, phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn phát triển mới việc cần thiết phải thay đổi kết cấu nội dung, cập nhật các quan điểm mới của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ trong chương trình đào tạo là yêu cầu có tính nguyên tắc trong giảng dạy tại nhà trường:

Thứ nhất, về kết cấu bài giảng, cần tách riêng nội dung quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước về khoa học, công nghệ thành một bài riêng, độc lập trong chương trình để khẳng định nhận thức mới của Đảng và tầm quan trọng của vấn đề này. Đây là sự vận dụng để thay đổi kết cấu bài giảng.

Thứ hai, cần cập nhật kịp thời tư tưởng, quan điểm mới của Đại hội XII của Đảng về khoa học, công nghệ trong bài giảng; cụ thể là:

Xác định làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn hình thành tư duy mới của Đảng về khoa học, công nghệ theo quan điểm mới của Đại hội XII của Đảng. Đại hội đã có nhiều đánh giá, nhận định quan trọng đó là Khoa học, công nghệ ở nước ta chưa tương xứng, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới; Cách mạng khoa học, công nghệ đòi hỏi phải đổi mới; Phát triển khoa học, công nghệ là tất yếu để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Bổ sung những điểm mới về vị trí, vai trò của khoa học, công nghệ tại Đại hội XII của Đảng vào giảng dạy.

Văn kiện Đại hội thay thế cụm từ “khoa học và công nghệ” bằng “khoa học, công nghệ”, đây không đơn thuần là diễn đạt mà cho thấy tư duy của Đảng xác định khoa học, công nghệ có quan hệ chặt chẽ, thâm nhập vào nhau và  không tách bạch giữa “khoa học” và “công nghệ”.

Đại hội XII của Đảng xác định: “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh..”. Khẳng định: “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”, “thực sự” (thật sự) việc thêm hai chữ “thực sự” trước  “là quốc sách hàng đầu”,  nhấn mạnh sự cần thiết phát triển khoa học, công nghệ, đặt yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ của đất nước lên tầm cao mới, khắc phục những yếu kém trong thời gian qua; coi đây là công việc trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. “Khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu” còn có nghĩa là mọi chủ trương, chính sách phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội cũng như bảo vệ Tổ quốc đều phải dựa vào khoa học, công nghệ và thực hiện bằng khoa học, công nghệ; khoa học, công nghệ phải đứng hàng thứ nhất và đi trước một bước trong mọi chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước.

Đại hội tiếp tục khẳng định: “khoa học và công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại”. Trong nhiều nhân tố tạo thành động lực trong quá trình đổi mới và hội nhập, khoa học, công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại và “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn tới… lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”.

Đây là sự đánh giá đúng đắn, khách quan, khoa học vai trò của khoa học, công nghệ trên quan điểm, lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta. Từ đó có đánh giá và xác định chính sách đầu tư, phát huy tác động của KHCN hiệu quả. Đảng đã khẳng định vai trò to lớn của khoa học, công nghệ trong phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức tổ chức, quản lý, phân công lao động xã hội và tăng năng suất lao động.

Văn kiện Đại hội cũng xác định cụ thể: “Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta”. Trong bối cảnh quốc tế cạnh tranh gay gắt, công nghệ chính là công cụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng và bền vững, bí quyết để phát triển và khẳng định vị thế trên trường quốc tế; đây là định hướng phát triển lớn và mới về phát triển công nghệ của đất nước trong thời gian tới; lần đầu tiên tại Đại hội đề ra chủ trương xây dựng chiến lược phát triển công nghệ quốc gia, chiến lược được xây dựng và triển khai sẽ tạo động lực kích thích quá trình đổi mới công nghệ hiện nay; các định hướng cho các chương trình trọng điểm về công nghệ thông tin, sinh học, tự động hoá… sẽ góp phần nâng cao năng lực nội sinh công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế.

Bổ sung quan điểm Đại hội XII của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn tới.

Trong chương trình hiện nay, phần nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ giáo trình đã ghi nhận 3 nội dung nhiệm vụ cơ bản; cần bổ sung những tư tưởng, nhiệm vụ mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng XII đó là:

Đổi mới tư duy, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với phát triển khoa học, công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý khoa học, công nghệ; đổi mới và phát triển thị trường khoa học, công nghệ; phát triển và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ và xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, đẩy mạnh hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ.

Nghiên cứu, vận dụng Nghị quyết sát hợp với chức năng, nhiệm vụ, điều kiện cụ thể của từng tổ chức trong hệ thống chính trị là nhiệm vụ chính trị chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nắm bắt, tận dụng những thành tựu của cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại để đi tắt, đón đầu, phát triển khoa học, công nghệ hiện đại, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và khoảng cách phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và là yêu cầu bắt buộc trong truyền đạt quan điểm, đường lối của Đảng đối với cán bộ, đảng viên trong đào tạo của nhà trường hiện nay.

Từ những nhận thức trên, liên hệ trách nhiệm của cán bộ, giảng viên, nhân viên trường Chính trị Trường Chinh trước hết cần quán triệt sâu sắc tư tưởng, quan điểm đổi mới của Đảng và vận dụng sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Một mặt cần khai thác và sử dụng hiệu quả ứng dụng khoa học, công nghệ trong nhà trường; Mặt khác cần tiếp tục tham mưu, tranh thủ các lợi thế so sánh để huy động, tăng cường đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, giảng dạy, học tập. Cán bộ, giảng viên, nhân viên, học viên cần tăng cường nhận thức, ứng dụng khoa học, công nghệ vào công tác quản lý, giảng dạy và học tập, công tác; tăng cường hiệu quả ứng dụng khoa học, công nghệ đổi mới phương pháp làm việc, phương pháp giảng dạy, học tập nhằm nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng cán bộ của nhà trường là hành động thiết thực nhất để quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về khoa học, công nghệ ./.

 

 

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG VẬN DỤNG

VÀO GIẢNG DẠY TẠI KHOA LÝ LUẬN MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH TỈNH NAM ĐỊNH

                                     

TS. Vũ Ngọc Hoàng                                         

             Trưởng khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Sau khi được tham gia tiếp thu những nội dung cơ bản của nghị quyết Đại hội XII của Đảng, khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chủ động triển khai nhiều hoạt động nghiên cứu, quán triệt và đưa Nghị quyết Đại hội vào giảng dạy và đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng.

Để nội dung cơ bản của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng được chuyển tải tới học viên một cách kịp thời, hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - là một trong những khoa chịu trách nhiệm chính về giảng dạy nội dung này của nhà trường. Chi bộ khoa đã quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 01-CT/TW ngày 22-3-2016 của Bộ Chính trị khoá XII, Hướng dẫn số 04-HD/BTGTW và kế hoạch tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết của Tỉnh uỷ Nam Định lần thứ XIX cùng với triển khai Nghị quyết số 06-NQ/ĐU ngày 24-3-2016 của Đảng ủy trường Chính trị Trường Chinh về nâng cao chất lượng giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại trường Chính trị Trường Chinh. Chi bộ khoa đã chỉ đạo giảng viên chủ động tiếp cận những nội dung cốt lõi, những điểm mới trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, trên cơ sở đó vận dụng vào giảng dạy các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà khoa đảm nhận.

Những quan điểm cơ bản, cốt lõi, phát triển trong Nghị quyết Đại hội XII là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, từ kinh nghiệm, từ thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, mà trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)”; Bài học kinh nghiệm qua 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới của Đảng… Do đó, trong quán triệt và vận dụng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào giảng dạy, cán bộ, giảng viên của Khoa rất chú trọng tính linh hoạt, sáng tạo và thực tiễn. Những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu phấn đấu từ nay đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; nhiệm vụ “Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”; thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”… đã được giảng viên đưa ngay vào giảng dạy các môn. Vận dụng phương pháp luận Triết học Mác - Lênin trong xây dựng chủ trương, đường lối; vận dụng Kinh tế chính trị Mác - Lênin vào quá trình xây dựng và quản lý kinh tế ở Việt Nam; vận dụng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…

Những điểm mới trong văn kiện Đại hội XII của Đảng liên quan trực tiếp đến những bộ môn mà khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giảng dạy bao gồm:

Một là, chủ trương lớn, quan trọng, được nêu ra từ Đại hội XII của Đảng. Trong thời gian tới là tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế phát triển nhanh và bền vững (hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp quốc). Đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Động lực quan trọng nhất và cũng là điều kiện để đổi mới mô hình tăng trưởng là đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo.

Hai là, tập trung xây dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn; phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hoá chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh. Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu; có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất. Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế. Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường. Đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tiếp tục tập trung đầu tư hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối đồng bộ với một số công trình hiện đại.

Ba là, thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.

Bốn là, tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân.

Thể chế hoá và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thể chế hoá và thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".

Với những giải pháp đồng bộ và sáng tạo, các nội dung Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã thấm nhuần và đang được vận dụng khá hiệu quả trong các hoạt động nghiên cứu, học tập, rèn luyện, công tác của giảng viên, học viên; góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường./.

 

NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ DÂN CHỦ TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG

 

ThS. Trần Thị Thu

Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Tại Đại hội XI của Đảng (1/2011) khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.

Trên tinh thần đó Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng và thực hiện các loại ý kiến khác nhau, coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người.

Tuy nhiên, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm.

Để phát huy những thành tựu đạt được và khắc phục những hạn chế của việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng ta đã đưa ra những điểm mới trong việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa:

Lần đầu tiên, phát huy dân chủ XHCN được Đảng ta khẳng định là một trong những thành tố hợp thành chủ đề Đại hội: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”[35]. Đây là thành tố được xếp ở vị trí quan trọng thứ hai trong chủ đề. Điều này thể hiện vị trí quan trọng của dân chủ trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới, “phát huy dân chủ” là thành tố hiện hữu, xuyên suốt toàn bộ nội dung báo cáo chính trị.

Cùng với chủ đề của Đại hội, vấn đề dân chủ được trình bày thành một mục độc lập trong phần XIII của Báo cáo chính trị với tiêu đề: “Phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân” chứ không gắn với nội dung phát huy sức mạnh đại đoàn kết như Đại hội XI. Điểm mới này cho thấy vấn đề dân chủ trở nên cấp thiết, then chốt cần được quan tâm trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trong những năm tới của nước ta.

Tiếp đó Đảng ta đưa ra nội dung cơ bản của việc phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Trong văn kiện ghi: “dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát thực hiện”[36]. Như vậy, văn kiện lần này nhấn mạnh việc bảo đảm quyền làm chủ cho nhân dân là rất cần thiết để phát huy quyền làm chủ cho người dân. Người dân phải được tham gia bàn bạc, phải được quyết định trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và phải được kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách ấy. Bởi vì thực tế hiện nay một số nơi việc thực hiện dân chủ còn nhiều vi phạm như việc lấy phiếu tín nhiệm còn mang tính hình thức, việc giải quyết các vấn đề liên quan đến khiếu kiện của người dân còn chưa triệt để...

Để thực hiện và phát huy đầy đủ dân chủ thì Đảng ta đã chỉ rõ là phải gắn liền với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đây được coi là điều kiện cơ bản nhất bởi vì một trong những nguyên nhân của việc quyền làm chủ của người dân chưa được phát huy đó là “Hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và các điều kiện thực thi dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ”[37] vì vậy để khắc phục nguyên nhân đó cần phải “tập trung xây dựng những văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”[38].

Một trong những biện pháp để có thể hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm phát huy dân chủ mà Đảng ta chỉ ra đó là thông qua “thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội”[39], “thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm: “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”[40].

Đảng ta còn khẳng định “để thực hiện dân chủ trong xã hội phải bảo đảm để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội, trước hết phải đảm bảo phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội”[41]. Bởi, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo hệ thống chính trị thực hành dân chủ trong xã hội. Vì vậy, vai trò “hạt nhân” của Đảng được thể hiện rất rõ trong đời sống xã hội. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng sẽ tạo điều kiện, là hình mẫu, tấm gương để cán bộ, đảng viên vận dụng, thực hành ở từng cơ quan, đơn vị, tổ chức, có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện và phát huy dân chủ trong xã hội. Đồng thời, góp phần khắc phục bệnh: thủ cựu, độc đoán, chuyên quyền, tự do vô kỷ luật..., đang “ăn sâu, bám rễ” làm suy thoái một bộ phận cán bộ, đảng viên, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Vì thế phải nâng cao hơn nữa nhiệm vụ xây dựng Đảng, để Đảng thực sự vững mạnh về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.

Như vậy, qua Văn kiện Đại hội XII chúng ta thấy, nhận thức của Đảng về dân chủ ngày càng sâu sắc và đầy đủ đặc biệt là việc phát huy dân chủ trong toàn xã hội; là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa giá trị tư tưởng của nhân loại, của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thành tựu của hơn 70 năm cách mạng Việt Nam, 30 năm đổi mới xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa, vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn của đất nước. Phát huy tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, khơi dậy được sức mạnh tiềm tàng và vô tận trong dân, chúng ta nhất định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

           

 

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ XII

 

ThS. Nguyễn Thị Thu Hường

Trưởng khoa Nhà nước và pháp luật

 

Vận dụng Nghị quyết của Đảng vào giảng dạy lý luận chính trị là một yêu cầu, một đòi hỏi tất yếu đối với giảng viên các trường chính trị. Tuy nhiên, làm thế nào để vận dụng Nghị quyết vào công tác giảng dạy một cách hiệu quả, không mang tính hình thức là vấn đề mà người giảng dạy lý luận chính trị phải trăn trở.

Là giảng viên của trường Chính trị Trường Chinh, là giảng viên của khoa Nhà nước và pháp luật - một trong 4 khoa chuyên môn của nhà trường được phân công giảng dạy nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng khác nhau. Trong các chương trình mà khoa đảm nhiệm đều có những nội dung liên quan đến việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Vận dụng Nghị quyết của Đảng đặc biệt là Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng vào truyền tải nội dung “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” theo tinh thần trên là nhiệm vụ đặt ra đối với mỗi cán bộ, giảng viên của khoa.

Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải phát huy dân chủ, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Xây dựng một nhà nước kiểu mới, một nhà nước dân chủ là quan điểm, là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt quá trình Đảng lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng. Từ khi thành lập, khi giành được chính quyền và suốt quá trình lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện nhà nước, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu xây dựng một nhà nước thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Ngay từ khi thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Quan điểm về dân chủ của Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã được thể hiện thông qua việc tổ chức và xây dựng nhà nước trong mấy chục năm qua. Tư tưởng ấy một lần nữa được nhắc lại và khẳng định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng: “Tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”[42]. Trong thực tế, để phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, Đảng ta đã không ngừng chăm lo mọi mặt đời sống của Nhân dân. Người dân chỉ thực sự là chủ và làm chủ khi họ có cuộc sống tự do, cơm no, áo ấm và được học hành. Những chủ trương của Đảng về chăm lo cải thiện đời sống Nhân dân đã được cụ thể hóa bằng các chính sách, được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Đó chính là cơ sở pháp lý để Nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong đó có quyền dân chủ. Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân không chỉ được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật mà còn được nhà nước tổ chức, tạo điều kiện để thực hiện trên thực tế. Nhân dân tích cực đi bỏ phiếu bầu cử để chọn người có đức, có tài tham gia công việc quốc gia, Nhân dân trao cho nhà nước quyền lực để quản lý xã hội chính là Nhân dân đã phát huy quyền làm chủ của mình. Nhà nước chỉ là người đại diện cho Nhân dân để thực hiện quyền lực đó. Dân chủ là một quyền thiêng liêng của con người, là bản chất của chế độ của nhà nước ta. Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, tạo điều kiện để Nhân dân phát huy quyền làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt tích cực tham gia xây dựng nhà nước. Như vậy, học viên vừa tiếp thu được kiến thức một cách khoa học vừa hiểu rõ bản chất của vấn đề theo đúng tinh thần, chủ trương, đường lối của Đảng. Đó chính là vận dụng Nghị quyết của Đảng vào giảng dạy.

Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước là một trong những phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bằng lý luận và thực tiễn giảng viên giúp cho học viên hiểu nhà nước là một hiện tượng xã hội. Cũng giống như các sự vật, hiện tượng khác, nhà nước muốn tồn tại và phát triển cần phải phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm, yếu kém. Các nhà nước trên thế giới, dù ở các mức độ khác nhau, đều ít nhiều có tồn tại, yếu kém đó là tệ quan liêu, tham nhũng…trong bộ máy nhà nước.

Muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, bên cạnh việc phát huy bản chất tốt đẹp, những yếu tố tích cực, cần chú ý khắc phục những hạn chế vốn có của nhà nước đó chính là vấn đề quan liêu, tham nhũng. Quan liêu, tham nhũng xuất phát từ sự tham lam, ích kỷ của mỗi con người, cái mà sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là “chủ nghĩa cá nhân”.

Để thủ tiêu quan liêu, tham nhũng, chống lại chủ nghĩa cá nhân, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói và viết để nhắc nhở cán bộ đảng viên vấn đề này. Người đã viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, chỉ ra những nguy cơ của chủ nghĩa cá nhân và những biện pháp khắc phục nó. Để chống lại quan liêu, tham nhũng, những cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước phải thực sự là công bộc, người đày tớ trung thành của Nhân dân. Cán bộ, công chức phải gương mẫu thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng nhà nước, đảng ta luôn chú trọng đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, có đủ trình độ, năng lực phẩm chất để tham gia nắm giữ những cương vị quan trọng trong bộ máy nhà nước. Mấy chục năm qua đội ngũ ấy đã không phụ niềm tin của Đảng và Nhân dân, ra sức rèn luyện, phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhân dân giao cho. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả to lớn đó thì tệ quan liêu, tham nhũng cũng nảy sinh và ngày càng tinh vi. Phát huy bản chất tốt đẹp của một đảng Nhân dân cách mạng, Đảng ta đã không ngừng đấu tranh chống lại những hiện tượng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên đang có những biểu hiện tha hóa, biến chất làm mất niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, có nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của chế độ, của đất nước. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khóa XI đã thể hiện quyết tâm của toàn Đảng trên mặt trận chống quan liêu, tham nhũng. Quyết tâm chống quan liêu, tham nhũng của Đảng thời gian qua không chỉ thể hiện qua các Nghị quyết, Chỉ thị mà còn được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Phong trào thi đua học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã được toàn đảng, toàn dân tham gia sôi nổi, tích cực và thu được nhiều kết quả. Chống quan liêu, tham nhũng không còn là chuyện của riêng ai, mà là việc của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị.

 Hiểu rõ tầm quan trọng của công tác phòng chống quan liêu, tham nhũng, Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII là:“Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”[43]. Trong quá trình giảng bài giảng viên luôn chú ý vận dụng quan điểm của Đảng để làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan. Đó chính là quá trình tuyên truyền và thực hiện Nghị quyết, đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.

   Vận dụng Nghị quyết của Đảng vào giảng dạy là một việc làm vô cùng quan trọng đối với giảng viên các trường chính trị. Những vấn đề vừa được trình bày trên đây chỉ là suy nghĩ cá nhân, rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các đồng chí, đồng nghiệp để cùng nhau làm tốt hơn nữa công việc vẻ vang mà Đảng và Nhân dân giao cho./.

 

TRÁCH NHIỆM CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

TRƯỜNG CHINH ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ

CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỈNH NAM ĐỊNH GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

                                             

ThS. Cao Thị Hà

Phó Trưởng khoa Nhà nước và pháp luật

 

Đội ngũ cán bộ, công chức là một bộ phận quan trọng thực thi các chức năng, nhiệm vụ nhà nước. Uy tín của nhà nước được thể hiện, niềm tin của nhân dân được khẳng định bằng chính kết quả làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức. Chất lượng, hiệu quả làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức được đánh giá thông qua một số yếu tố cơ bản như năng lực, phẩm chất, ý thức tổ chức kỷ luật…

Trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Nam Định cơ bản được đánh giá hoàn thành nhiệm vụ. Năm 2015, qua Báo cáo đánh giá, phân loại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của UBND tỉnh Nam Định trong tổng số 34.070 cán bộ, công chức, viên chức toàn tỉnh, có 8.079=23,7% xếp loại Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; 22.701=66,7% Hoàn thành tốt nhiệm vụ; 3.236=9,4% Hoàn thành tốt nhưng còn hạn chế về năng lực; chỉ có 54=0,2% Không hoàn thành nhiệm vụ. Bên cạnh những kết quả đạt được, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức chưa thực sự nhận thức đầy đủ về vai trò của mình trong thực thi công vụ, chưa thực sự thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm là “công bộc” của nhân dân.

Nghị quyết số 09-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020 ban hành ngày 20/10/2016 về "nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp từ năm 2016 đến 2020 và những năm tiếp theo" có ghi nhận: "cán bộ có bản lĩnh vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh; ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao, tích cực đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo, tự giác rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh, của địa phương, cơ quan, đơn vị". Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng chỉ ra: "Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa tâm huyết với công việc, năng lực chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, vai trò trách nhiệm chưa cao, ngại va chạm, thụ động, ỷ lại, sa sút về phẩm chất đạo đức lối sống, còn gây phiền hà sách nhiễu khi thực hiện nhiệm vụ...".

Nghị quyết số 05-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020 ban hành ngày 9/6/2016 về "Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, xúc tiến và thu hút đầu tư giai đoạn 2016-2020" có đánh giá: "Một số lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức còn thiếu trách nhiệm trong thực thi công vụ, gây phiền hà, nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư, doanh nghiệp nhưng chưa có trường hợp nào bị xử lý".

Trước đòi hỏi của yêu cầu nhiệm vụ được đặt ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX (nhiệm kỳ 2015-2020), cần phải có giải pháp hữu hiệu khắc phục một số tồn tại đối với đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Nam Định hiện nay.

Trường Chính trị cấp tỉnh nói chung trong đó có trường Chính trị Trường Chinh được giao nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ, công chức trong tỉnh. Nhà trường xác định trách nhiệm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh, khắc phục một số hạn chế nêu trên.

Ban Chấp hành Đảng bộ Nhà trường quan tâm chỉ đạo sát sao để nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giảng viên. “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý” theo tinh thần Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 26-5-2014, Đảng bộ nhà trường đã xây dựng Nghị quyết số 06 - NQ/ĐU ngày 24/3/2016 về tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại trường Chính trị Trường Chinh. Mục tiêu trong thời gian tới của nhà trường là: “xây dựng đội ngũ giảng viên đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp”.

Thực hiện sự chỉ đạo trên, mỗi giảng viên nhà trường luôn tự nhận thức đầy đủ nhiệm vụ của mình, không ngừng hoàn thiện và nâng chuẩn nghề nghiệp của mình đtrang bị toàn diện hơn những kiến thức cơ bản, kiến thức chuyên ngành chuyên sâu, kiến thức thực tiễn và cả kiến thức liên ngành đủ tầm luận giải được những vấn đề lý luận và thực tiễn đang diễn ra rất phức tạp, khó đoán định. Với kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp, mỗi giảng viên không ngừng tư duy về những kiến thức mới, về cách giảng giải vấn đề gắn lý luận với hoạt động quản lý, với thực tiễn đời sống chính trị - xã hội. Trong mỗi bài giảng, với căn cứ lập luận chắc chắn, các giảng viên thuyết phục học viên để họ nhận thức về vị trí người cán bộ, công chức, quy trình thực thi nhiệm vụ, trách nhiệm triển khai thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được đặt ra trong mỗi giai đoạn. Mọi biểu hiện về năng lực hạn chế, sa sút phẩm chất đạo đức, thiếu ý thức kỷ luật và một số biểu hiện tham nhũng, lãng phí, dẫn đến nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được Đảng ta nhận định đều xuất phát từ nguyên nhân căn bản là số cán bộ, công chức được bổ nhiệm, tuyển dụng chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò và thẩm quyền được phân giao. Qua các bài giảng có nội dung liên quan đến triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống chính trị, nhà nước, pháp luật và quản lý hành chính nhà nước, học viên hiểu bản chất của việc giao quyền thực thi công vụ. Mỗi cán bộ, công chức chính là những “công bộc” được nhân dân ủy quyền trao cho nên phải có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, thay mặt cho nhân dân điều hành quản lý hiệu quả các công việc chung, không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân trong cơ chế nhà nước mà tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.

Qua các khóa học của nhà trường, được trang bị bổ sung một số kỹ năng lãnh đạo quản lý, nghiệp vụ công tác đảng, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể khi thực hiện công vụ, là những người thừa hành công vụ, mỗi cán bộ, công chức nhận thức rõ trách nhiệm phải tích cực tham gia thực hiện cam kết xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng Quốc hội hành động; Chính phủ và hệ thống chính quyền địa phương kiến tạo, liêm chính và phục vụ; cơ quan tư pháp đủ mạnh để bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tích cực tham gia vào hoạt động của Đảng, chính quyền, thực hiện hiệu quả chức năng giám sát và phản biện xã hội.

Giảng viên rất cần có tình yêu và tâm huyết với nghề, có đạo đức nghề nghiệp, có bản lĩnh chính trị vững vàng và kiên quyết đấu tranh, phê phán những quan điểm sai trái, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng. Mỗi giảng viên chính là tấm gương về nhân cách, đạo đức, về phong cách đĩnh đạc, lịch sự; về ý thức kỷ luật khi tuân thủ nghiêm chỉnh thời gian lên lớp, sử dụng tối đa hiệu quả thời gian dành cho mỗi bài giảng; có cách ứng xử văn hóa, nghiêm túc nhưng không quá khắt khe, dân chủ, gần gũi nhưng không quá dễ dãi. Đó chính là việc “dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Với nhiệt huyết nghiên cứu, niềm say mê trong mỗi bài giảng của giảng viên sẽ lan tỏa đến người học. Vốn nhạy cảm, các học viên sẽ cảm nhận được để xây dựng, củng cố thêm tình yêu và trách nhiệm với công việc của họ. Đây là hành trang lý luận quan trọng để các học viên vận dụng trong xử lý công việc tại cơ quan, đơn vị.

Nhà trường cần tạo một môi trường học tập dân chủ, lấy người học làm trung tâm và tuân thủ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong đào tạo. Tuyển sinh đúng tiêu chuẩn; quản sinh đúng quy chế; tổ chức thi, đánh giá, xếp loại đúng năng lực học viên. Đó chính là tạo thói quen trong tuân thủ kỷ luật công vụ tại cơ quan, đơn vị.

Những tồn tại trong đội ngũ cán bộ, công chức nói chung trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Nam Định đã được nhận diện và hiện vẫn đang trong quá trình khắc phục. Cả hệ thống chính trị vào cuộc, chủ thể quản lý cán bộ, công chức có trách nhiệm trực tiếp. Trong đó có trách nhiệm của trường Chính trị. Nhà trường hướng tới xây dựng hình mẫu trường chuẩn trong quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Mỗi giảng viên trường Chính trị Trường Chinh đang không ngừng cố gắng hoàn thiện và nâng chuẩn nghề nghiệp của mình, bằng hệ thống tri thức chuyên sâu, liên ngành, bằng phương pháp giảng dạy thường xuyên được đổi mới, bằng sự gương mẫu, trách nhiệm với công việc, nghiêm túc chỉ ra và gợi ý, xây dựng giải pháp khắc phục những tồn tại trong thực thi công vụ, đang góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Nam Định đủ Tâm, Tầm, Tài, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao, xây dựng tỉnh Nam Định phát triển bền vững./.

 

 

VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ

                          

ThS. Đinh Thị Oanh

Phó Trưởng khoa Nhà nước và pháp luật

 

Giám sát là một chức năng chủ yếu và quan trọng của Hội đồng nhân dân các cấp nói chung, trong đó có Hội đồng nhân dân xã. Chức năng đó được thể hiện qua vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân xã. Các đại biểu hội đồng nhân dân xã do cử tri của xã bầu ra, đại diện cho cử tri của xã. Đại biểu Hội đồng nhân dân xã là người tham gia xây dựng, đóng góp các ý kiến và thông qua các nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã. Với tư cách là thành viên của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân trong vai trò người giám sát, có nhiệm vụ đảm bảo rằng: hoạt động của các tổ chức nhà nước, tổ chức kinh tế và công dân đúng pháp luật và bảo đảm các chính sách, các chương trình hoặc các dịch vụ công cộng ở địa phương do hội đồng ban hành được thực thi có hiệu quả.

Thực tế vai trò giám sát của Đại biểu hội đồng nhân dân xã thể hiện thông qua các hoạt động như: Chất vấn những người bị chất vấn; giám sát quyết định của Ủy ban nhân dân xã; giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân xã phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân và của mỗi đại biểu Hội đồng nhân dân. Qua thực tiễn hoạt động giám sát, nhiều đại biểu Hội đồng nhân dân đã nêu cao tinh thần trách nhiệm là người đại diện của nhân dân, tích cực học tập, nghiên cứu, đổi mới phương pháp làm việc, không ngừng nâng cao chất lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Đại biểu Hội đồng nhân dân xã đã tham gia vào việc cụ thể hóa chủ trương của cấp ủy, ra quyết định đúng đắn về quy hoạch và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương ở từng năm, từng giai đoạn; quyết định phân bổ nguồn lực công và nguồn lực đầu tư được huy động từ các thành phần kinh tế hợp lý, đúng quy định của pháp luật. Qua tiếp xúc cử tri và thực tiễn hoạt động, nhiều đại biểu đã phát hiện những vấn đề mang tính nổi cộm, bức xúc ở địa phương, từ đó có ý kiến chất vấn với các cơ quan liên quan hoặc kiến nghị với Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân để tổ chức các đoàn giám sát nhằm làm rõ trách nhiệm và đề xuất các giải pháp khắc phục. Nhiều đại biểu đã kiên trì theo dõi vấn đề đã chất vấn, kiến nghị thể hiện được bản lĩnh, tâm huyết trong hoạt động dân cử. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên địa bàn xã các đại biểu hội đồng nhân dân yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân bị vi phạm. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm nghiên cứu và chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để xem xét, giải quyết, theo dõi đôn đốc việc giải quyết, đồng thời thông báo cho người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị biết.

Bên cạnh đó hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp ở một số lĩnh vực, nhất là công tác giám sát chuyên đề hiệu quả còn hạn chế[44]. Đối với Hội đồng nhân dân xã trên thực tế: có đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động kiêm nhiệm chưa dành thời gian thích đáng cho hoạt động của Hội đồng nhân dân. Thực tế cho thấy trong quá trình lựa chọn, giới thiệu người ứng cử vẫn còn những hạn chế trong việc kết hợp hài hòa giữa cơ cấu và tiêu chuẩn năng lực của đại biểu, thường nặng về cơ cấu, thành phần nên chất lượng, trình độ năng lực và kỹ năng hoạt động Hội đồng nhân dân của một số đại biểu còn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của đại biểu dân cử. Trong kỳ họp Hội đồng nhân dân một số đại biểu chưa thực sự phát huy dân chủ và trí tuệ tập thể, chưa đáp ứng được sự mong muốn của cử tri, cá biệt có đại biểu mắc khuyết điểm vi phạm kỷ luật, để cử tri còn bức xúc, phê bình đối với vai trò đại biểu Hội đồng nhân dân. Hoạt động tiếp xúc cử tri còn hạn hẹp, chưa đảm bảo điều kiện để đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp xúc cử tri tại nơi cư trú hoặc tại đơn vị địa bàn bầu cử, mới chỉ tổ chức cho đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp xúc với đại biểu cử tri tập trung tại Ủy ban nhân dân xã, chính vì thế đại biểu Hội đồng nhân dân xã chưa nắm hết được tâm tư nguyện vọng của cử tri trong toàn xã; kỹ năng gợi mở, động viên cử tri phát biểu ý kiến, kiến nghị về những vấn đề liên quan đến nội dung chương trình kỳ họp và kỹ năng phân tích, tổng hợp thông tin, tiếp thu và giải trình ý kiến cử tri của một số đại biểu Hội đồng nhân dân còn hạn chế...

Hậu quả của tình trạng trên là không ít nghị quyết được ban hành nhưng triển khai, thực hiện gặp nhiều khó khăn, có nghị quyết không thể đi vào cuộc sống. Đối với hoạt động giám sát, đôi lúc đại biểu chỉ có ý kiến mang tính phản ánh hiện tượng mà chưa đi sâu phân tích nguyên nhân, chỉ ra trách nhiệm cụ thể của các cá nhân, đơn vị nên kết luận giám sát thiếu sức thuyết phục.

Qua thực tiễn hoạt động của Hội đồng nhân dân và Đại biểu Hội đồng nhân dân xã để nâng cao trách nhiệm giám sát của Đại biểu Hội đồng nhân dân xã trong thời gian tới theo chúng tôi cần thực hiện một số giải pháp như sau:

Tiếp tục đổi mới hoạt động của hội đồng các cấp[45].

Tổ chức thực hiện triệt để nghiêm túc Luật tổ chức chính quyền địa phương và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.

Đại biểu Hội đồng nhân dân xã phải gắn bó với cử tri, vừa lắng nghe và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri, vừa giám sát, vừa tác động và đôn đốc các cơ quan có thẩm quyền giải quyết thoả đáng các ý kiến, nguyện vọng của cử tri. Hội đồng nhân dân phải có trách nhiệm nâng cao năng lực và trách nhiệm cho đại biểu Hội đồng nhân dân như tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho đại biểu kỹ năng tự giám sát và tham gia Đoàn giám sát; xác định cách tiếp cận để nghiên cứu vấn đề cần giám sát; kinh nghiệm nêu vấn đề, đặt câu hỏi hợp lý với cơ quan hữu quan để làm rõ các nội dung cần xem xét; thảo luận và đi đến kết luận giám sát; xây dựng kiến nghị giám sát và theo dõi kết quả thực hiện yêu cầu của Đoàn giám sát.

Tuy nhiên, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, đại biểu Hội đồng nhân dân phải thường xuyên tham gia các lớp tập huấn về kỹ năng giám sát và tự nghiên cứu, nâng cao nhận thức, hiểu biết đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân; năng động sáng tạo trong thực hiện quy định của pháp luật, trong hoạt động thực tiễn. Các đại biểu hoạt động kiêm nhiệm cũng cần phát huy tính chủ động, không chỉ hoạt động trong kỳ họp Hội đồng nhân dân mà cả giữa hai kỳ họp, khi tiếp xúc cử tri… không thụ động chờ chỉ đạo của Thường trực, các ban Hội đồng nhân dân. Từng đại biểu phải tạo được sự mến mộ, tin tưởng đối với cử tri...

Có thể nói, thông qua hoạt động giám sát đại biểu Hội đồng nhân xã thể hiện rõ vai trò là người đại diện cho ý chí, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân xã, đồng thời là cầu nối giữa nhân dân với chính quyền và chính quyền với nhân dân./.

 

QUAN ĐIỂM VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ XII VẬN DỤNG VÀO CÔNG TÁC GIẢNG DẠY CỦA TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH TỈNH NAM ĐỊNH

  

CN. Lê Thị Thu Phượng

Giảng viên khoa Dân vận

 

Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, cả trong thời kỳ chưa có chính quyền cũng như thời kỳ Đảng cầm quyền; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và toàn xã hội; là vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Trong bài báo Dân vận, đăng trên báo Sự thật ngày 15/10/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân vận là vận động lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm và những việc mà đoàn thể Chính phủ giao cho”. Một nội dung cốt lõi, xuyên suốt tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đại đoàn kết dân tộc “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Dân là gốc của nước. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[46]. Đồng thời, Người nêu một luận điểm hoàn chỉnh có tính quy luật của mọi cuộc cách mạng: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công"[47]. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận đã trở thành đường lối chiến lược cơ bản lâu dài, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn của Đảng ta và nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng nói chung.

Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về công tác dân vận qua các thời kỳ, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã nâng quan điểm, nội dung công tác dân vận lên một tầm cao mới với những tư duy mới, nhận thức mới nhằm phát huy hiệu quả công tác dân vận phù hợp, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra mục tiêu cho công tác dân vận trong giai đoạn tới là: “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[48].

Tổng kết 30 năm đổi mới, một lần nữa Đảng ta lại khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của công tác dân vận. Công tác dân vận là một mặt công tác cơ bản của Đảng, nhân tố quan trọng góp phần củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Nhằm tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận để nhanh chóng khắc phục những hạn chế, yếu kém, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong công tác dân vận, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã những nhóm giải pháp quan trọng để triển khai các nhiệm vụ công tác dân vận là: 

Một là, cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân.

Hai là, kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, tăng cường và đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt quy chế dân vận của hệ thống chính trị.

Ba là, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận.

Đối với tỉnh Nam Định trong những năm qua công tác dân vận đã kịp thời nắm bắt tình hình cơ sở, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó tham gia giải quyết có hiệu quả những vấn đề phức tạp, bức xúc, góp phần ổn định tình hình ngay từ cơ sở, tạo không khí dân chủ, tin tưởng trong các tầng lớp nhân dân với Đảng. Trên cơ sở các nội dung cơ bản của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và tình hình thực tế về công tác dân vận của tỉnh Nam Định tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XIX đã đề ra định hướng công tác dân vận đến năm 2020 là: “Nâng cao chất lượng công tác dân vận, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và sự đồng thuận xã hội[49].

Cập nhật và vận dụng quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XIX về công tác dân vận, Đảng bộ trường Chính trị Trường Chinh nói chung và từng giảng viên nói riêng đã xác định rõ trách nhiệm cần phải nghiên cứu và quán triệt các nội dung về công tác dân vận trong từng bài giảng. Cụ thể cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, tiếp tục tuyên truyền, đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm tuyên truyền Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), thực hiện mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Từ đó, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Thông qua công tác giảng dạy nghiệp vụ công tác Đảng và các đoàn thể ở cơ sở, kỹ năng lãnh đạo, quản lý góp phần thay đổi nhận thức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng phong cách làm việc của cán bộ cơ sở khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm.

Thứ hai, nghiên cứu và cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” nhất là nội dung “nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” để định hướng trong thực tiễn hoạt động của học viên. Nâng cao nhận thức để từ đó thực hiện có hiệu quả, có chất lượng công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Cung cấp cho học viên những nội dung trọng tâm của chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức, đẩy nhanh việc áp dụng Chính phủ điện tử...

Thứ ba, thông qua các chương trình đào tạo của nhà trường, cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận có đủ phẩm chất, năng lực, có các kỹ năng cần thiết để thực hiện tốt và có hiệu quả công tác dân vận.

Vận dụng và triển khai những nội dung cơ bản của công tác dân vận trong tình hình mới mà Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XIX nêu ra đòi hỏi các cấp, các ngành, mỗi tổ chức Đảng, cán bộ đảng viên của tỉnh nói chung và trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định nói riêng cần thực sự đổi mới, nhận thức đúng đắn, đầy đủ đồng thời phải thực hành cụ thể, nghiêm túc, gương mẫu trong dân vận và công tác dân vận; thường xuyên gắn lý luận với thực tiễn, nhận thức đi đôi với hành động, nói đi đôi với làm. Có như vậy công tác dân vận của tỉnh mới đi vào chiều sâu, góp phần tạo chuyển biến toàn diện cả về nội dung và phương thức vận động quần chúng trong thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ đó góp phần không nhỏ để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tăng cường sự đồng thuận xã hội, huy động sức mạnh của các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương./.

 

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀO GIẢNG DẠY PHẦN “NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT XHCN” Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH

 

ThS. Trần Thị Thu Hà

Phó Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu

 

Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở Việt Nam là quá trình lâu dài, phải được tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan. Trải qua các kỳ Đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan điểm về Nhà nước pháp quyền, và Đại hội XII của Đảng - sau 30 năm đổi mới - đã đưa ra một số điểm mới về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 30 năm đổi mới, Đảng đã đặt ra mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất nước đó là: nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[50], vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Khẳng định bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Đại hội XII có những điểm mới sau đây:

Thứ nhất, trong Báo cáo chính trị tại các Đại hội trước đó, đặc biệt là Đại hội Đảng X và Đại hội Đảng XI, chúng ta thấy, tại Đại hội Đảng XII, vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta quan tâm sâu sắc hơn.

Báo cáo chính trị tại Đại hội X, XI, vấn đề Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đề cập tương đối khiêm tốn chủ yếu chỉ xác định một số phương hướng nhiệm vụ đẩy mạnh Nhà nước pháp quyền XHCN.

Báo cáo chính trị tại Đại hội XII, Đảng ta cũng dành một mục “XIV - Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Mục này không chỉ trình bày phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà trình bày rất rõ ràng, cụ thể về tình hình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Thứ hai, văn kiện Đại hội Đảng XII khẳng định “Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản. Nhận thức của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân có bước phát triển”[51].

Trong tiến trình các kỳ Đại hội Đảng, cho thấy bước phát triển trong quan điểm và thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Như vậy, thuật ngữ Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam chính thức được sử dụng tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994). Và thuật ngữ này được nhắc lại trong các Đại hội sau và đặc biệt là Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng với những bổ sung, hoàn thiện đáng ghi nhận.

Thứ ba, đánh giá về tình hình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Văn kiện Đại hội Đảng XII ghi nhận những kết quả đạt được: về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn[52]; Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động[53]; hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện[54]; Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng[55]; tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn; chất lượng hoạt động có tiến bộ...

Đại hội XII cũng nghiêm túc chỉ ra những khuyết điểm, hạn chế trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước...

Thứ tư, từ những đánh giá về tình hình của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chỉ ra thành công cũng như hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm đó, Đảng ta đã đề ra những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh việc xác định rõ những giải pháp cụ thể cần triển khai (tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức), so với Đại hội XI, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nêu những nhiệm vụ, giải pháp mới, nổi bật như: tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013; đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền XHCN; xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước; Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện, mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý…

Để vận dụng những nội dung Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào giảng dạy môn “Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN”, khoa Nhà nước và pháp luật và giảng viên kiêm chức khoa của trường Chính trị Trường Chinh đã liên tục bổ sung các nội dung mới về nhà nước pháp quyền vào nghiên cứu và giảng dạy.

Thứ nhất về soạn giáo án, tài liệu

Các giảng viên tích cực nghiên cứu, trao đổi, thảo luận, cập nhật thông tin mới về chủ trương, đường lối của Đảng. Đặc biệt Nghị quyết và Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; cập nhật những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 về xây dựng và tổ chức các cơ quan trong bộ máy nhà nước như: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chính quyền địa phương; cập nhật quy định mới vài giáo án như: Luật tổ chức Quốc Hội, Luật tổ chức Chính Phủ, Luật tổ chức chính quyền địa phương,…

Trên cơ sở đó, các giảng viên truyền tải những nội dung về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vào biên soạn bài giảng, phục vụ cho môn học.

Thứ hai, về quá trình giảng dạy của giảng viên

Trong quá trình giảng dạy môn học này giảng viên đã lồng ghép những điểm mới về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền trong Văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước khi lý giải về bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đặc biệt là vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.

Cụ thể, đối với vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam: giảng viên chỉ rõ, hướng dẫn, giải thích cho học viên nắm được quan điểm của Đảng về tình hình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay; đặc điểm của nhà nước pháp quyền Việt Nam; nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam; nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, về quá trình học tập của học viên

Phát huy tính tích cực của học viên trong quá trình học tập và nghiên cứu, giảng viên hướng dẫn học viên tự đọc, tự tìm hiểu một số nội dung về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và nội dung về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tại Hiến pháp 2013.

Trong quá trình học tập trên lớp, giảng viên tiến hành trao đổi, hướng dẫn học viên thảo luận nhóm về các nội dung liên quan đến xây dựng, tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Đồng thời, định hướng để học viên tự trao đổi vấn đề thực tế về xây dựng, tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước hiện nay.

Qua quá trình tự nghiên cứu, tìm hiểu trên cơ sở định hướng của giảng viên và quá trình học viên nghe giảng, làm việc trên lớp, học viên sẽ nắm được những vấn đề cơ bản nhất về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nắm bắt những thực tiễn trong tổ chức bộ máy nhà nước địa phương trong quá trình quản lý cũng như chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất kiến nghị, giải pháp giải quyết./.

 

 

MỘT SỐ TỒN TẠI CỦA VĂN PHONG NGÔN NGỮ

TRONG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TNH NAM ĐỊNH QUA KHẢO SÁT THỰC TẾ

 

  CN. Mai Thị Thanh Hương

Giảng viên khoa Dân Vận

 

Trong soạn thảo và ban hành văn bản QPPL của chính quyền cấp xã, văn phong ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng. Nó là yếu tố quyết định để nội dung văn bản được hiểu theo một nghĩa thống nhất, từ đó được thực hiện thống nhất. Văn phong ngôn ngữ giúp chuyển tải nội dung của các quy phạm tới người thực hiện, giúp cán bộ thi hành pháp luật cũng như đối tượng chịu sự điều chỉnh dễ dàng hiểu và thực hiện đúng các yêu cầu của văn bản. Bên cạnh đó, cách diễn đạt, lối hành văn cũng góp phần tạo nên tính công quyền của văn bản. Đồng thời thể hiện trình độ, văn hóa của đơn vị soạn thảo, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý.

Theo quy định, văn bản quản lý nhà nước (QLNN) nói chung và văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) nói riêng được viết theo văn phong hành chính - công vụ (còn gọi là văn phong hành chính). Văn phong hành chính là những phương tiện ngôn ngữ có tính khuôn mẫu, chuẩn mực được sử dụng thích hợp trong lĩnh vực giao tiếp của hoạt động pháp luật và hành chính. Do văn bản QPPL được viết theo văn phong hành chính - công vụ nên nó phải đảm bảo được các yêu cầu về tính chính xác, tính phổ thông đại chúng, tính khách quan, tính trang trọng lịch sự tính khuôn mẫu.

Qua khảo sát thực tế đối với những văn bản do chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định ban hành cho thấy: các lỗi về văn phong ngôn ngữ mà chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định thường mắc phải như sau:

Thứ nhất, vi phạm tính chính xác trong văn bản QPPL.

Hiện nay nhiều văn bản QPPL của chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định sử dụng từ đa nghĩa và sắp xếp từ không đúng trật tự gây hiểu sai cho người tiếp nhận. Chẳng hạn: trong một số Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND)về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội có viết: “không nên hút thuốc lá nơi công cộng”. Việc sử dụng từ “không nên” khi đưa ra các quy phạm mang tính bắt buộc là không phù hợp vì dễ dẫn đến cách hiểu đa nghĩa: không nên hút chứ không cấm hút. Hay:“Đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, phương tiện, thiết bị làm việc”. Ở câu trên, cách hành văn lủng củng do người viết đã sắp xếp sai trật tự từ. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, hiệu lực hiệu quả của các quyết định quản lý.

Không những vậy, trong nhiều văn bản còn thường xuyên sử dụng văn nói: “các vị đại biểu HĐND xã”. Việc sử dụng phong cách khẩu ngữ đã làm giảm tính trang trọng, lịch sự của văn bản. Vì thế đòi hỏi người viết phải thận trọng khi sử dụng các thuật ngữ trong quá trình soạn thảo văn bản.

Bên cạnh đó, trong các văn bản QPPL của chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định, lỗi dùng từ không đúng chính tả tiếng Việt xuất hiện khá nhiều. Chẳng hạn: “sảy ra dịch bệnh”; “thêu zen”... Thậm chí cùng một từ nhưng trong các văn bản cũng có cách viết khác nhau: “tỷ lệ” -“tỉ lệ”…  Nguyên nhân của việc dùng từ sai chính tả có thể bắt nguồn từ lỗi phát âm nhưng cũng có thể bắt nguồn từ lỗi đánh máy. Điều này đòi hỏi khi soạn thảo văn bản, người viết phải luôn kiểm tra chính tả để đảm bảo tính chính xác của ngôn ngữ.

Hiện nay trong các văn bản QPPL của chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định vẫn chưa có sự thống nhất về cách viết hoa. Qua khảo sát cho thấy, cách viết hoa còn tùy tiện và thiếu chính xác. Cùng một nội dung tương tự nhưng cách viết hoa khác nhau, thậm chí viết hoa ngẫu hứng: “Luật ngân sách Nhà nước - Luật Ngân sách Nhà nước”... Khi người soạn thảo văn bản không thống nhất trong cách viết hoa và viết hoa tùy tiện sẽ làm mất tính uy nghiêm của các quyết định quản lý.

 Trong cách dùng câu, văn bản QPPL của chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định hiện nay thường mắc lỗi sử dụng dấu câu không hợp lý làm cho ngữ nghĩa của câu không rõ ràng. Một số Nghị quyết của HĐND viết:“Kế hoạch sử dụng đất 5 năm giai đoạn (2010 - 2015), đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt ngày 29/9/2013”. Việc sử dụng dấu ngoặc đơn “(2010-2015)” và dấu phẩy đằng sau là sai dấu câu, làm cho câu văn mất tính liên kết.

Mặt khác, về nguyên tắc câu phải đủ hai thành phần chủ ngữ và vị ngữ. Câu thiếu một trong hai thành phần chủ - vị là câu sai nhưng thực tế vẫn có những câu đặc biệt chỉ có một thành phần. Tuy nhiên hiện nay trong văn bản QPPL của chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định, nhiều câu không đáp ứng được yêu cầu thông tin do thiếu chủ ngữ hoặc vị ngữ, từ đó làm giảm hiệu quả của quá trình trao đổi thông tin. Chẳng hạn: “Kế hoạch đảm bảo công tác ANTT - ATGT trên địa bàn trong thời gian diễn ra Đại Hội Đảng bộ các cấp”. Câu văn trên thiếu vị ngữ và chưa trả lời được câu hỏi: kế hoạch đảm bảo công tác ANTT- ATGT trên địa bàn được thực hiện như thế nào? Do đó câu văn không đảm bảo yêu cầu về cách đặt câu.

Ngoài ra trong một số văn bản còn tồn tại lỗi viết các con số trong ngày tháng. Trong cùng một văn bản QPPL, việc viết các con số trong ngày tháng cũng không có sự thống nhất (xét các con số dưới hàng chục). Điều này làm ảnh hưởng đến tính chính xác của văn bản và làm giảm chất lượng văn bản.

Thứ hai, vi phạm tính khách quan và tính trang trọng lịch sự trong văn bản

Theo quy định để đảm bảo yêu cầu của văn phong hành chính - công vụ, trong văn bản QPPL chỉ sử dụng câu tường thuật. Các văn bản QPPL do chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định ban hành hầu như đã đảm bảo được yêu cầu này. Tuy nhiên vẫn còn một số văn bản vi phạm, chẳng hạn: nhiều văn bản sử dụng từ: “kêu gọi”,“hãy” khiến câu văn mang dáng dấp của câu cầu khiến. Việc sử dụng các kiểu câu khác không phải câu tường thuật sẽ làm mất đi tính trang trọng lịch sự và tính khách quan của văn bản QPPL.

Thứ ba, vi phạm tính phổ thông đại chúng trong văn bản.

Trong một số văn bản thường mắc lỗi sử dụng từ viết tắt và không có chú giải cho từ được viết tắt. Thậm chí trong cùng một văn bản việc sử dụng từ viết tắt cũng không thống nhất: HĐND - Hội đồng nhân dân”. Vi phạm lỗi này sẽ làm mất đi tính rõ ràng, nghiêm túc, tính phổ thông đại chúng của văn bản QPPL và làm cho người đọc khó tiếp nhận văn bản. Trong một văn bản có thể viết tắt một số từ, tuy nhiên cần có chú thích ngay ở lần xuất hiện đầu tiên của từ đó. Tránh tình trạng viết tắt tràn lan, chỉ nên viết tắt những từ thông dụng và có tần suất xuất hiện nhiều lần trong một văn bản.

Thứ tư, vi phạm tính khuôn mẫu trong văn bản.

Nhiều văn bản QPPL của chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định còn phổ biến tình trạng sử dụng sai dấu sau căn cứ ban hành, sau tên loại quyết định và sau các tiêu đề. Chẳng hạn: sau mỗi căn cứ phải xuống dòng và cuối dòng có dấu chấm phẩy, riêng căn cứ cuối cùng kết thúc bằng dấu phẩy. Tuy nhiên trong nhiều văn bản, sau phần căn cứ ban hành người viết lại sử dụng dấu chấm. Điều này làm cho các phần của văn bản rời rạc, không thể hiện chính xác nội dung cần truyền đạt và làm vi phạm tính khuôn mẫu của văn bản.

            Trên đây là những hạn chế về văn phong ngôn ngữ trong văn bản QPPL của chính quyền cấp xã tỉnh Nam Định. Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau: Thiếu các quy định pháp luật hướng dẫn về sử dụng ngôn ngữ trong văn bản QLNN nói chung và văn bản QPPL nói riêng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác soạn thảo văn bản chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý về vai trò, chức năng của văn bản QPPL chưa đầy đủ. Cán bộ công chức cấp xã chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc soạn thảo văn bản; công tác nghiên cứu và triển khai ứng dụng trong lĩnh vực này còn chậm, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thời kỳ mới. Công tác quản lý và kiểm tra văn bản còn yếu. Năng lực cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản hạn chế trong khi đó vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho họ chưa được quan tâm và tài liệu hướng dẫn chưa có sự thống nhất.

            Xuất phát từ thực trạng trên, để nâng cao hơn nữa chất lượng văn phong, ngôn ngữ trong văn bản QPPL của chính quyền cấp xã ở Nam Định cần phải tập trung vào một số vấn đề sau: Trước hết, cần sớm hoàn thiện các quy định pháp luật về soạn thảo và ban hành văn bản QPPL, trong đó quan trọng nhất là ban hành quy định về cách viết hoa trong văn bản QPPL; cách đặt dấu câu sau các tiêu đề; cách viết tiếng nước ngoài… Thứ hai, xây dựng và sử dụng thống nhất các văn bản mẫu vì hiện nay có rất ít văn bản được mẫu hoá và tính thống nhất giữa các văn bản mẫu chưa cao. Do đó càng mẫu hoá được nhiều văn bản thì việc sử dụng càng thuận lợi, chính xác và hiệu quả. Thứ ba, bồi dưỡng nghiệp vụ văn phòng cho cán bộ làm công tác văn phòng. Thứ tư, từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác soạn thảo văn bản.

Trên đây là một số hạn chế về văn phong ngôn ngữ trong văn bản QPPL của chính quyền cấp xã ở Nam Định. Những hạn chế này nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước. Do đó cần thiết phải nâng cao hơn nữa chất lượng văn phong ngôn ngữ trong văn bản QPPL của chính quyền cấp xã ở Nam Định giai đoạn hiện nay./.

 

 

NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG TA VỀ VAI TRÒ

THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XII

 

CN. Trần Thùy Dương

Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Kinh tế tư nhân được dùng để chỉ thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, cả hai cùng thuộc chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tuy nhiên quy mô sản xuất là khác nhau.

Từ Đại hội VI - Đại hội đổi mới đất nước cho đến nay, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế tư nhân là một chủ trương nhất quán, lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để tiếp tục khuyến khích và tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế tư nhân, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng đã xác định nhiều chủ trương, quan điểm mới về kinh tế tư nhân đáp ứng yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp cách mạng:

Đại hội XII của Đảng có bước phát triển mới về vai trò của kinh tế tư nhân được đông đảo dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao. Đại hội khẳng định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”[56] trong sự phát triển của đất nước. Đây được xem là một điểm sáng trong kỳ đại hội lần này. Tại các Đại hội trước, Đảng ta khẳng định kinh tế tư nhân là “một trong những động lực”, nhưng đây là lần đầu tiên xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Điểm này không chỉ là sự xác nhận vai trò mới của kinh tế tư nhân, mà còn mở ra những cơ hội mới để thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn trong những năm sắp tới.

Nhìn lại chặng đường 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, có thể thấy rất rõ những đóng góp tích cực của kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp ngày càng lớn cho ngân sách nhà nước, tạo ra nhiều loại hàng hóa chất lượng ngày càng cao, giá cả ngày càng hợp lý đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân… Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê đến năm 2014, kinh tế nhà nước đóng góp 28,73% GDP, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 17,89% GDP, trong đó kinh tế tư nhân là 43,33% GDP, đến nay kinh tế tư nhân đóng góp trên 50% GDP cả nước. Không chỉ đóng góp lớn trong GDP mà khu vực kinh tế tư nhân còn đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước. Theo bảng xếp hạng 1.000 doanh nghiệp nộp thuế nhiều nhất Việt Nam ngày 23/9/2010 số lượng danh nghiệp tư nhân đã chiếm tỷ lệ ngang với doanh nghiệp nhà nước. Đây là năm đầu tiên thông qua bảng xếp hạng để ghi nhận và tôn vinh các doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt, tuân thủ pháp luật, chính sách về thuế và đóng góp thuế thu nhập lớn cho ngân sách quốc gia.[57] Bên cạnh đó, khu vực kinh tế tư nhân còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng các công trình văn hóa, thể dục thể thao, trường học, đường xá, cầu cống, nhà tình nghĩa và nhiều công trình phúc lợi xã hội khác trên mọi miền Tổ quốc; khu vục này còn góp phần to lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao chất lượng lao động…Tính đến cuối năm 2015 có khoảng 500.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động, tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm…Nhiều doanh nghiệp của Việt Nam đã lớn mạnh sánh ngang với các doanh nghiệp nước ngoài. Có thể khẳng định: “Cần khẳng định vai trò động lực của khu vực kinh tế tư nhân, vì khu vực kinh tế tư nhân là khu vực của toàn dân. Hãy tin vào nhân dân, hãy tin vào sự nghiệp làm kinh tế của nhân dân. Nhà nước hãy đóng vai trò như nhà nước kiến tạo, nhà nước hỗ trợ và đóng vai trò là hậu phương vững chắc của nhân dân cho sự nghiệp làm ăn kinh tế của toàn dân”.[58]

Để tiếp tục khuyến khích, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển trong điều kiện nước ta đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và quốc tế, Đại hội XII của Đảng đã xác định giải pháp quan trọng hàng đầu là: Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế; trong đó chú trọng hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp. Doanh nghiệp là lực lượng chủ công trong phát triển đất nước, song các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân của nước ta chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh thấp, sản phẩm chất lượng chưa cao, năng lực quản trị còn nhiều hạn chế. Theo đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Con số thống kê cho hay, DNVVN chiếm  trên 97% tổng số DN cả nước, đóng góp khoảng 50% GDP, 33% thu ngân sách nhà nước (NSNN), tạo ra 62% việc làm cho người lao động, đóng góp 49% vào việc tạo giá trị gia tăng cho nền kinh tế…  

Tuy nhiên, các DNVVN hầu hết có quy mô từ nhỏ đến siêu nhỏ (vốn chỉ ở mức 4 - 7 tỷ đồng/doanh nghiệp). Đã vậy, số lượng doanh nghiệp bị ngừng hoạt động, phá sản diễn biến theo xu hướng tăng theo thời gian. Chỉ tính riêng quý I-2015, cả nước có tới trên 2.500 doanh nghiệp tuyến bố phá sản, giải thể. Mặc dù đây là con số giảm (khoảng 0,6%) so với cùng kỳ năm 2014, song số liệu này cũng cho thấy, các DNVVN của Việt Nam với quy mô vốn không lớn nên khó có thể trụ vững khi có biến động của môi trường kinh doanh. 

Đáng nói là, nền kinh tế đang bước vào ngưỡng cửa hội nhập, hàng loạt các hiệp định thương mại song phương đang được Việt Nam tiến hành ký kết với các quốc gia, song có tới trên 80% doanh nghiệp trong nước không biết đến và chưa có chuẩn bị gì về tác động của những hiệp định này. Thực tế này là vô cùng đáng lo ngại, bởi sự thiếu thông tin khi hội nhập sẽ càng khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam vốn yếu, lại càng yếu thêm trước các đối thủ mạnh. Và chính yếu kém này dẫn đến việc các doanh nghiệp của ta không tiếp cận được thị trường xuất khẩu. Khi đó, các cơ hội đến từ việc hội nhập sẽ có nguy cơ bị bỏ lỡ. Chính vì vậy, Đại hội lần thứ XII Đảng đã chỉ ra phải nỗ lực không ngừng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng phát triển.

Điều quan trọng là, thực hiện hóa chủ trương tạo môi trường, điều kiện thuật lợi cho phát triển các thành phần kinh tế nói chung, phát triển kinh tế tư nhân, từng cấp, ngành, đơn vị, địa phương từ Trung ương đến địa phương phải tập trung nghiên cứu, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường bảo đảm đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật.

Một bước tiến mới của Đại hội XII trong thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đó là lần đầu tiên Đảng ta xác định chủ trương: “Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”[59].

Quan điểm trên của Đảng xuất phát từ thực tiễn phát triển của kinh tế tư nhân. Trong 30 năm đổi mới và phát triển, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển nhanh chóng cả về quy mô và chất lượng, làm cho không ít doanh nghiệp tích tụ được một lượng vốn, tài sản lớn, hoạt động, quản lý theo phương thức tiên tiến. Chính vì vậy, sự xuất hiện của các tập đoàn kinh tế tư nhân là một xu hướng tất yếu và phù hợp với chủ trương lớn: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất…”[60]. Việc khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước là hoàn toàn khách quan, khoa học. Nó sẽ là cơ sở quan trọng để nhà nước hoàn chỉnh khung pháp lý, tăng cường quản lý, định hướng, hỗ trợ kịp thời cho kinh tế tư nhân phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tốt vai trò “động lực quan trọng của nền kinh tế”.

Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân tại Đại hội XII là một trong những nội dung lớn, đúng đắn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng, có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới nói chung, phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay nói riêng. Quán triệt, nắm vững quan điểm trên của Đảng không những tạo động lực mạnh mẽ cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước mà còn khắc phục được những hạn chế của khu vực này đặc biệt là tính tự phát để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta./.

HỘI THI HỌC VIÊN HỌC GIỎI LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ LẦN THỨ NHẤT

- KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM

 

 

ThS. Lê Thị Như Hoa

Trưởng phòng Đào tạo

 

 

            Thực hiện Hướng dẫn số 159/HD-HVCTQG, ngày 22 tháng 10 năm 2015 của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về tổ chức Hội thi học viên học giỏi lý luận chính trị; thiết thực chào mừng kỷ niệm 126 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2016); hướng tới kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường (09/6/1956 - 09/6/2016), Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định đã tổ chức Hội thi học viên học giỏi lý luận chính trị lần thứ Nhất - năm 2016.

Mục đích của Hội thi là: tuyển chọn, công nhận và suy tôn học viên học giỏi lý luận chính trị; giúp học viên tìm ra phương pháp học tập hiệu quả nhất nhằm nâng cao chất lượng học tập lý luận chính trị; đẩy mạnh phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt”, nhân rộng điển hình tiên tiến, tạo động lực phát triển sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của nhà trường. Đây là hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đánh giá chất lượng giảng dạy của giảng viên và học tập của học viên tại các lớp Trung cấp lý luận chính trị - hành chính, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của nhà trường.

Để tiến tới Hội thi, Ban Giám đốc nhà trường đã xây dựng kế hoạch tổ chức Hội thi, thành lập Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Hội thi; chỉ đạo các cơ sở liên kết đào tạo, các lớp Trung câp lý luận chính trị - hành chính sơ tuyển, chọn cử học viên tham dự Hội thi. Nhà trường đã mời lãnh đạo các khoa của các trường chính trị trong cụm thi đua số 4 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tham gia Ban Giám khảo Hội thi.

Hội thi diễn ra sôi nổi, khẩn trương trong ngày 2 ngày 18, 19/5/2016, thu hút đông đảo học viên các lớp, các đồng chí lãnh đạo các cơ sở đào tạo tham gia. Có 35 học viên được lựa chọn từ 18 lớp/24 lớp ở 11/12 đơn vị mở lớp tham gia. Các học viên đã tham dự 2 phần thi: phần thi viết và phần thi thuyết trình. Học viên dự thi, với nhiều độ tuổi, trình độ chuyên môn, lĩnh vực công tác khác nhau nhưng với sự nhiệt tình, niềm say mê học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ lý luận chính trị đã dành thời gian, trí tuệ ôn tập và với tri thức, kinh nghiệm của mình thể hiện bài thi khá tốt. Nhiều bài thi thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về kiến thức trong chương trình Trung cấp chính trị - hành chính, sự vận dụng kiến thức lý luận sát với thực tiễn của ngành, địa phương, đơn vị. Các bài thi là thành quả của quá trình học tập, nghiên cứu của học viên, đồng thời cũng là thành quả của các thầy, cô giáo.

Kết thúc Hội thi, 35/35 thí sinh dự thi đạt danh hiệu học viên học giỏi lý luận chính trị (đạt 16/20 điểm trở lên). Trong đó: 12 thí sinh đạt giải Nhất (tổng điểm 2 bài thi đạt trên 18 điểm), 11 thí sinh đạt giải Nhì (tổng điểm 2 bài thi đạt từ 17 điểm đến dưới 18 điểm), 12 thí sinh đạt giải Ba (tổng điểm 2 bài thi đạt từ 16 điểm đến dưới 17 điểm).

Tuy nhiên, đây là lần đầu nhà trường tổ chức Hội thi nên không tránh khỏi những hạn chế nhất định như: số lượng đề thi chưa được phân bố đều ở tất cả các môn, phần học; phần thi thuyết trình tổ chức bằng hình thức thi vấn đáp, vì vậy chưa tạo cơ hội cho học viên thể hiện khả năng thuyết trình, kỹ năng trả lời các câu hỏi phụ và khả năng giao lưu với Hội thi.

Hội thi học viên học giỏi lý luận chính trị tỉnh Nam Định lần thứ Nhất – năm 2016 đã đạt được những mục tiêu đề ra. Hội thi nhận được sự đánh giá cao của lãnh đạo Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Vụ các trường Chính trị, lãnh đạo các trường chính trị trong cụm thi đua số 04 và các đơn vị trong khối thi đua các cơ quan Đảng thuộc Tỉnh ủy Nam Định về công tác đào tạo của nhà trường, về ý thức của học viên, sự quan tâm, tạo điều kiện của các đơn vị phối hợp đào tạo.

Từ kết quả của Hội thi, nhà trường rút ra một số kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Vụ Các trường chính trị; sự giúp đỡ, hỗ trợ, động viên nhiệt tình, trách nhiệm của các trường chính trị trong cụm thi đua số 4.

Thứ hai, huy động sự “vào cuộc” của tất cả các bộ phận, xây dựng kế hoạch cụ thể, phân công, phân nhiệm rõ ràng cho các khoa, phòng, các bộ phận có liên quan. Chỉ đạo các khoa chuyên môn xây dựng đề thi, đáp án, tham gia Ban Giám khảo; phòng Đào tạo xây dựng kế hoạch, sắp xếp lịch học của các lớp, xây dựng các văn bản, biểu mẫu, giấy khen, kết nối các bộ phận liên quan; phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị chịu trách nhiệm mời, đón tiếp khách, ban giám khảo các trường bạn, trang trí, khánh tiết, kinh phí, cơ sở vật chất; phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu chuẩn bị máy móc, phương tiện, thiết bị phục vụ Hội thi.

Thứ ba, tạo sự đồng tình, phối hợp tích cực của các đơn vị mở lớp. Căn cứ vào Kế hoạch tổ chức Hội thi, các Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thành phố, các cơ sở đào tạo đã chủ động chọn, cử học viên tham dự Hội thi; tổ chức, động viên, hỗ trợ kinh phí cho các học viên. Một số Trung tâm đã tổ chức gặp mặt động viên học viên trước Hội thi; giúp học viên chuẩn bị, ôn luyện nội dung thi chu đáo.

Thứ tư, chọn, cử học viên dự thi là những người có ý thức học tập tốt, có trách nhiệm, nghiêm túc thực hiện quy chế trong quá trình học tập; cố gắng thu hút được sự tham gia nhiều nhất của các lớp đang học tại trường, bảo đảm đơn vị nào cũng có học viên dự thi với sự đa dạng về lĩnh vực công tác. Đây là yếu tố làm cho Hội thi có sự đa dạng, phong phú, hấp dẫn, nhất là phần thi thuyết trình.

Thứ năm, chú trọng nhân rộng kết quả Hội thi, tạo sức lan toả, khí thế học tập sôi nổi ở tất cả các lớp thuộc các chương trình đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường.

Hội thi học viên học giỏi lý luận chính trị lần thứ Nhất - năm 2016 do Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định tổ chức về cơ bản đã thành công tốt đẹp. Những kết quả đạt được, những hạn chế và những kinh nghiệm rút ra là những bài học quý cho việc tổ chức các Hội thi tiếp theo./.

 

 

BÁC HỒ VỚI SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO

 VÀ “BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU”

 

CN. Nguyễn Thị Huyền

Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà văn hóa kiệt xuất đồng thời cũng là nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam một kho tàng tài sản tinh thần vô giá, trong đó có những cống hiến lớn lao của Người về sự nghiệp giáo dục - đào tạo; sự cống hiến đó của Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận quan trọng làm nên sự nghiệp văn hóa kiệt xuất của Người.

Bác là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam không chỉ với ý nghĩa là người vạch đường, chỉ lối, người tổ chức, lãnh đạo, cổ vũ nhân dân ta làm nên thắng lợi, mà còn là người thầy - với ý nghĩa đã trực tiếp giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng cho bao thế hệ cán bộ của cách mạng Việt Nam. Từ thầy giáo Nguyễn Tất Thành ở trường học Dục Thanh (Phan Thiết) dù chỉ là trợ giáo môn thể dục và phụ trách hoạt động ngoại khóa nhưng Người đã đem hết lòng nhiệt tình truyền thụ cho các em học sinh lòng yêu nước và suy nghĩ của mình về vận mệnh đất nước; tiếp đến là hình ảnh đồng chí Vương ở lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu (Trung Quốc), sau này là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh ở biên giới Việt - Trung (Cao Bằng); đến các lớp học tập, nghiên cứu lý luận cho cán bộ trung, cao cấp của Đảng…

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn hiện thân là một người thầy mẫu mực, cần mẫn vun xới, chăm sóc cho sự nghiệp “trồng người” của dân tộc. Cũng chính tâm huyết ấy đã đào tạo nên bao lớp thế hệ cán bộ cách mạng trung thành, sáng suốt, họ đã cùng với Người đưa dân tộc ta từ một dân tộc nô lệ, bị kìm hãm trong lạc hậu, tối tăm từng bước tiến lên làm chủ đất nước, từng bước nâng cao văn hóa, đạo đức, lối sống… của dân tộc mình để có thể sánh vai, bước kịp các nước trên thế giới. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh là một nhà giáo dục vĩ đại đã khai sáng cho cả một dân tộc.

Sau khi nước nhà giành được độc lập, trên cương vị Chủ tịch nước, Người đã không ngừng quan tâm đến sự nghiệp giáo dục ở mọi cấp, từ giáo dục mẫu giáo, trung học, phổ thông đến giáo dục chuyên nghiệp, đại học. Người thường xuyên gửi thư, dành thời gian đến thăm nhiều trường học, từ Thủ đô đến miền núi, hỏi han, động viên và căn dặn nhiều điều quý báu. Những bức thư, những bài nói chuyện của Bác với thầy giáo, học sinh các trường đã trở thành tâm niệm của bao thế hệ thầy trò trước đây và ngày nay vẫn giữ nguyên tính khoa học, tính hiện đại đối với sự nghiệp cải cách, đổi mới và phát triển giáo dục nước ta ở thời đại kinh tế tri thức, xã hội thông tin và giao lưu, hội nhập với thế giới. Người đã từng căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”[61]. Nói như vậy, có nghĩa là Người coi sự nghiệp giáo dục - đào tạo - sự nghiệp “trồng người” là một chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng, là quốc sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta, đòi hỏi chúng ta phải luôn quan tâm và đầu tư cho sự nghiệp giáo dục. Vì vậy, trong cuộc họp Chính phủ đầu tiên Người đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách, cần giải quyết ngay trong đó có hai nhiệm vụ về giáo dục: một là cần “mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ” để xóa “nạn dốt”; hai là cần “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân ta bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính”[62]. Người coi nạn mù chữ là một thứ giặc nguy hại không kém gì giặc ngoại xâm; để chống và xóa nạn dốt, Người đã phát động phong trào “bình dân học vụ” hưởng ứng, cổ vũ cho việc học chữ; góp phần xóa nạn mù chữ của nhân dân.

Người không nói những điều to tát nhưng lại rất thấm thía: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa”[63]. Như vậy, chỉ có phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo ra những con người có năng lực, trình độ, những con người vừa hồng vừa chuyên, yêu lao động, yêu đất nước, có lý tưởng, hoài bão, thì mới có thể làm cho dân tộc mạnh và thoát khỏi nỗi buồn dân tộc nhược tiểu, bởi nghèo, dốt là kém cỏi, nghèo đi liền với hèn và khó. Vì thế trong thư gửi cho học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác đã viết: Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”[64]. Từ đó, Người chỉ rõ một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc lúc này là nâng cao dân trí, bởi không có một quốc gia nào có thể tiến hành xây dựng một xã hội mới và bảo vệ Tổ quốc thành công trong điều kiện văn hóa, dân trí, đạo đức, tinh thần, xã hội thấp kém.

            Không chỉ đề ra nhiệm vụ, công việc cấp bách phải thực hiện mà Bác còn chỉ ra mục tiêu cụ thể cho nền giáo dục mới và nhà trường mới phải thực hiện đó là: Học để làm việc, làm người, làm cán bộ; học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại; học để sửa chữa tư tưởng; học để tu dưỡng đạo đức cách mạng; học để tin tưởng và học để hành. Như vậy, mục tiêu cụ thể của giáo dục mà Người đề ra khác hẳn với mục tiêu giáo dục của xã hội phong kiến hay xã hội thực dân. Nếu như mục tiêu giáo dục của xã hội phong kiến coi trọng việc học để thi đỗ làm quan, gắn liền với công danh; thì mục tiêu giáo dục mà Bác đề ra đầu tiên là học để làm việc, làm người, rồi mới đến làm cán bộ, và làm cán bộ ở đây là phụng sự nhân dân, phụng sự đoàn thể, phụng sự Tổ quốc; cán bộ là những người công bộc thực sự của nhân dân, phải trau dồi, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức; đặc biệt Người còn chỉ ra mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục - đào tạo là bồi dưỡng, đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau, bồi dưỡng những chủ nhân tương lai của nước nhà.

Về nhiệm vụ và nội dung của giáo dục, Người yêu cầu, cần xây dựng một nền giáo dục toàn diện: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, lao động sản xuất”[65]. Như vậy, Người đòi hỏi, người thầy giáo không chỉ cung cấp tri thức, phát triển năng lực nhận thức, mở mang trí tuệ cho người học, mà còn phải hết sức chú ý bồi dưỡng, giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức cho học sinh, tức là giáo dục toàn diện; trong tư tưởng của Người bao giờ đạo đức cũng đi liền với tài năng; trong đó, đạo đức là gốc, là sức mạnh để giúp con người ta gánh được nặng và đi được xa, còn tài năng đòi hỏi phải trau dồi, học tập. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng, không chỉ đào tạo những con người giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải có đức; không chỉ giỏi và hiểu biết về một lĩnh vực, về chuyên môn của mình mà phải tìm hiểu, nghiên cứu về các lĩnh vực khác như khoa học, kỹ thuật, văn hóa, yêu đất nước, giống nòi và biết yêu lao động.

Nói về vị trí, vai trò của giáo dục với xã hội, mà đặc biệt là vai trò của người thầy, theo Bác, mối quan hệ giữa người thầy với giáo dục và sự phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước là một quá trình thống nhất. Trong  đó, người thầy là chủ thể có vị trí cực kỳ quan trọng và rất vẻ vang; Người nói: “Nhiệm vụ người thầy rất vẻ vang, vì nếu không có thầy, cô giáo thì không có giáo dục,… Không có giáo dục thì nói gì đến kinh tế, văn hóa”[66]. Bác xem việc dạy học là một nghề đào tạo và rèn luyện những con người để xây dựng xã hội ngày càng phát triển, đó là công việc vô cùng quan trọng, khó khăn, là sự cống hiến thầm lặng, hữu ích nhưng cũng rất vẻ vang nếu trở thành một nhà giáo tốt.

Hồ Chí Minh luôn thể hiện tư duy linh hoạt, chủ động, vì thế, khi bàn về chức năng và mục tiêu giáo dục của nước nhà Người luôn xác định cụ thể, phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của xã hội, đáp ứng nhu cầu đào tạo những con người có khả năng phục vụ cho xã hội một cách tốt nhất, hiệu quả nhất. Bởi nhiệm vụ của người thầy không chỉ là sự truyền bá tri thức, phương pháp, tay nghề cho người học, mà thầy giáo cũng như học trò, tất cả đều phải tham gia vào các công việc xã hội một cách thật tích cực; nhà trường phải gắn liền với thực tiễn xã hội, gắn liền với đời sống của nhân dân; người làm thầy giáo phải luôn là tấm gương không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để làm tấm gương sáng cho học trò noi theo, để đáp ứng yêu cầu của thời đại mới trên mọi phương diện.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chính Người đã đặt nền tảng cho ngành giáo dục - đào tạo của nước ta. Những quan điểm của Người về giáo dục vừa cách mạng, vừa khoa học, vừa hiện đại. Đó là di sản mà chúng ta cần học tập, quán triệt sâu sắc và trên thực tế, tư tưởng đó đã trở thành đường lối, chính sách giáo dục của Đảng, Nhà nước ta./.

 

 

ĐOÀN THANH NIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRƯỜNG CHINH

VỚI VIỆC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

 

CN. Nguyễn Thị Thu Lan

Bí thư đoàn trường

 

Ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Chỉ thị 05-CT/TƯ về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" với những yêu cầu đưa việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh lên một tầm mức mới với nội dung hết sức cụ thể gắn với công việc hằng ngày tại cơ quan, đơn vị, qua đó, phải có chuyển biến mạnh mẽ trong hành động và từng việc làm cụ thể.

So với các Chỉ thị trước đây của Trung ương về học tập và làm theo Bác, Chỉ thị 05-CT/TW có nội dung rộng hơn, phong phú, rõ ràng hơn và yêu cầu cũng cao hơn. Nhưng bao trùm của Chỉ thị 05 là: Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phải tiếp tục thực hiện mạnh mẽ. Không lý thuyết, không nói suông, không chung chung, hình thức. Phải gắn việc học tập và làm theo tấm gương của Bác với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa phương, đơn vị và với mỗi một cán bộ, đảng viên.

Đoàn viên thanh niên trường Chính trị Trường Chinh với tổng số 23 đoàn viên, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy nhà trường luôn kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, tuyệt đối trung thành với Đảng, vượt qua khó khăn, thử thách, tích cực hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, tham gia vào sự nghiệp đào tạo bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh Nam Định.

Hiện nay, cùng với toàn thể cán bộ Đảng viên, giảng viên, nhân viên nhà trường, thanh niên nhà trường đang tích cực đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là một đợt sinh hoạt chính trị hết sức quan trọng, có tác dụng tích cực tới mọi mặt hoạt động của nhà trường. Việc tổ chức thực hiện tốt học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, được Ban Chấp hành Đoàn thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, sinh động, thiết thực như:

- Yêu cầu 100% đoàn viên tham gia học tập tại Hội nghị quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp do Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh và Đảng ủy nhà trường tổ chức, gồm Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XIX, các Nghị quyết trọng tâm của Đảng bộ tỉnh: Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 20/4/2016 về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 09/6/2016 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, xúc tiến và thu hút đầu tư giai đoạn 2016-2020, Nghị quyết số 06- NQ/TU ngày 09/6/2016 về tập trung xây dựng, phát triển thành phố Nam Định, hình thành rõ nét một số chức năng trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng (giai đoạn 2016-2020), Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 09/6/2016 về xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định; Nghị quyết số 09- NQ/TU ngày 20/10/2016 về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp từ năm 2016 đến năm 2020 và những năm tiếp theo; đặc biệt là tuyên truyền tới Đoàn viên Nghị quyết số 06-NQ/ĐU ngày 24 tháng 3 năm 2016 của Đảng ủy trường Chính trị Trường Chinh “Về tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại trường Chính trị Trường Chinh”.

Sau khi được học tập các Nghị quyết, đoàn viên giảng viên đã kịp thời sửa đổi bổ sung giáo án để đưa các Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh, của nhà trường tuyên truyền tới các đối tượng học viên trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Tháng 3/2016, Đoàn thanh niên nhà trường tổ chức buổi tọa đàm “Đoàn viên thanh niên Trường Chính trị Trường Chinh với việc đổi mới phương pháp giảng dạy”, nhằm trao đổi các phương pháp giảng dạy giữa các đoàn viên với các giảng viên có kinh nghiệm của nhà trường, qua đó tích lũy kinh nghiệm, góp phần nâng cao trình độ lý luận và thực tiễn của giảng viên trẻ.

Động viên đoàn viên luôn sẵn sàng nhận hoàn thành nhiệm vụ được giao bao gồm: nhiệm vụ giảng dạy, phục vụ giảng dạy; nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế; không ngừng học tập nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ; có ý thức kỷ luật tự giác, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước nội quy quy chế làm việc của cơ quan; tham gia các hoạt động phong trào như: phong trào giữa gìn An ninh trật tự, an toàn cơ quan; các hoạt động văn hóa, văn nghệ thể thao, hoạt động tình nguyện; hoạt động phòng chống, khắc phục hậu quả lụt bão, hiến máu nhân đạo.... do nhà trường và đoàn cấp trên phát động.

Ban chấp hành Đoàn trường tổ chức phát động đoàn viên đăng ký rèn luyện, phấn đấu làm theo lời Bác dạy, rèn luyện đạo đức, lối sống văn hóa lành mạnh, trong sáng, có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, chống xa hoa, lãng phí. Bên cạnh đó, làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, xây dựng và nêu gương điển hình trong đoàn trường.

Đến nay, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã thực sự tạo được bước chuyển biến mạnh mẽ trong đoàn viên, thanh niên về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, học tập, nâng cao đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Cổ vũ đoàn viên tích cực phấn đấu học tập, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị, xây dựng Đảng bộ nhà trường trong sạch, vững mạnh, toàn diện. Đoàn trường hiện có 06/23 đồng chí có trình độ Thạc sĩ; 03 đồng chí đang học cao học, 04 đồng chí đăng kí dự thi cao học năm 2016; 01 đồng chí đang học Cao cấp lý luận chính trị, 04 đồng chí có bằng Trung cấp lý luận chính trị; 04 đồng chí đang học Trung cấp chính trị - hành chính. Đoàn viên nhà trường không có hiện tượng vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy quy chế của cơ quan đến mức kỷ luật, không vi phạm đạo đức lối sống... Trong năm 2016, Đoàn viên là giảng viên đã tham gia hội giảng nhân kỉ niệm 60 ngày thành lập trường (9/6/1956 - 9/6/2016), hội giảng cấp khoa để chọn thi giảng viên giỏi cấp trường và tham gia các đề tài khoa học cấp khoa, nghiên cứu khoa học nghiên cứu thực tế; về hoạt động phong trào có 9 đoàn viên tham gia hiến máu nhân đạo, 15 đoàn viên tham gia hoạt động thể thao chào mừng các ngày lễ lớn, 100% đoàn viên tham gia quyên góp tổng số tiền ủng hộ trẻ khuyết tật lên đến hàng chục triệu đồng...

Trong thời gian tới, để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục đi vào nề nếp:

Mỗi đoàn viên, thanh niên phải tự mình nỗ lực, không ngừng nêu cao tinh thần tự giác, rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng; trong sáng về đạo đức lối sống, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có sức khoẻ, có ý chí phấn đấu vươn lên, có tinh thần đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng cán bộ của nhà trường trong giai đoạn hiện nay. Nói không với bệnh thành tích và những việc làm hình thức, trong việc thực hiện cần phải “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”.

Ban Chấp hành Đoàn làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo nhà trường trong công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm. Kịp thời nêu gương người tốt, việc tốt; đồng thời nêu cao tự phê bình và phê bình, phân tích làm rõ những hạn chế, yếu kém và hướng khắc phục trong học tập và làm theo lời Bác trong từng đơn vị khoa, phòng, trong Đoàn trường.

Kết hợp chặt chẽ việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và các nội dung hoạt động khác của từng đơn vị khoa, phòng. Lấy tiêu chí đánh giá đoàn viên trên cơ sở hoàn thành nhiệm vụ mà khoa, phòng giao. Thực hiện tốt các yêu cầu của Chỉ thị số 05-CT/TƯ mà Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Đề nghị Đảng ủy, Ban Giám đốc, lãnh đạo các khoa, phòng nhà trường và Đoàn khối các cơ quan tỉnh tiếp tục quan tâm tới công tác đoàn và phong trào thanh niên của nhà trường. Thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; giữ vững nguyên tắc, chế độ sinh hoạt; gắn xây dựng tổ chức Đoàn với xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, nhà trường vững mạnh toàn diện.

Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương, phong cách Hồ Chí Minh là công việc hết sức cần thiết, vô cùng quan trọng. Mỗi đoàn viên phải luôn soi mình vào tấm gương của Bác để tìm thấy cho bản thân những điều có thể học tập và làm theo./.

 

MỘT SỐ KINH NGHIỆM

TRONG HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN CỦA PHÒNG ĐÀO TẠO

                                

ThS. Trần Thùy Dương

Phó Trưởng phòng Đào tạo

 

Sinh hoạt chuyên môn là một hoạt động nằm trong tổ chức giáo dục của các nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học, quản lý học sinh, sinh viên, học viên đảm bảo cho giáo viên được trao đổi, chia sẻ và học tập kinh nghiệm lẫn nhau.

Để tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng các hoạt động, dưới sự chỉ đạo của Ban Giám đốc, các khoa, phòng trường Chính trị Trường Chinh trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao đã thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả các các buổi sinh hoạt chuyên môn của đơn vị mình.

Phòng Đào tạo với chức năng cơ bản là tham mưu cho Ban Giám đốc quản lý toàn bộ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường luôn đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn của phòng.

Xuất phát từ nhiệm vụ cụ thể của phòng là: Tham mưu xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của trường; tham mưu, quản lý việc giảng dạy của giảng viên và học tập của học viên; tham mưu, giúp Ban Giám đốc xác định chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng của các loại hình đào tạo, bồi dưỡng; là đầu mối làm việc với các đơn vị liên quan (các khoa, phòng, các đơn vị phối hợp) về công tác đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường; hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các khoa, phòng về quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng theo đúng mục tiêu, yêu cầu, kế hoạch và quy chế, quy định về quản lý đào tạo, bồi dưỡng của Đảng, nhà nước, của tỉnh; tham mưu công tác chiêu sinh, tuyển sinh, khai giảng, chủ nhiệm lớp, tổ chức kiểm tra, thi, viết tiểu luận cuối khóa, bế giảng các lớp…Với đặc thù công việc của phòng nên việc tổ chức sinh hoạt chuyên môn có nhiều điểm khác biệt so với các khoa giảng dạy trong nhà trường.

            Đối với các khoa chuyên môn, sinh hoạt chuyên môn là một hoạt động nhằm nâng cao chất lượng dạy học đảm bảo cho giảng viên được trao đổi, chia sẻ và học tập kinh nghiệm lẫn nhau.

            Đối với phòng Đào tạo, sinh hoạt chuyên môn là hoạt động nhằm nâng cao chất lượng tham mưu, xây dựng kế hoạch và công tác phối hợp quản lý trong đào tạo nhằm đảm bảo cho viên chức của phòng được trao đổi, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm.

             Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, tập thể và cá nhân viên chức phòng Đào tạo đã chủ động nghiên cứu, tham mưu, đề xuất và mạnh dạn đổi mới nhiều hoạt động trong công tác chuyên môn như: tích cực, chủ động hơn trong công tác tham mưu; công tác quản lý đào tạo đã có những đổi mới bước đầu đạt kết quả tích cực. Những việc làm đó đã góp phần từng bước nâng cao hiệu quả công tác chuyên môn của phòng, khẳng định những việc đã làm tốt để phát huy, đồng thời chỉ ra những tồn tại, bất cập, từ đó đề ra các giải pháp để không ngừng nâng cao hiệu quả công tác. Qua nhiều lần tổ chức sinh hoạt chuyên môn, phòng Đào tạo chúng tôi rút ra một số kinh nghiệm để tổ chức ngày càng hiệu quả, thiết thực hơn như sau:

Thứ nhất, cần xây dựng kế hoạch tổ chức sinh hoạt chuyên môn của phòng trong từng tháng, quý. Kế hoạch, sinh hoạt chuyên môn được xây dựng và phổ biến đến từng cán bộ, viên chức để mọi người nắm được thời gian, địa điểm, phương thức tổ chức, thành phần tham gia. Đặc biệt để cán bộ, viên chức trong phòng chủ động chuẩn bị nội dung phục vụ cho buổi sinh hoạt được hiệu quả, ý nghĩa. Kế hoạch được xây dựng trên tinh thần buổi họp phòng hàng tháng, hàng quý, nội dung sinh hoạt đã được triển khai, thống nhất trong từng cán bộ, viên chức của phòng; hàng tháng đồng chí trưởng phòng xây dựng kế hoạch cụ thể. Để phong phú nội dung trong buổi sinh hoạt, yêu cầu các cán bộ, viên chức trong phòng phải có sự chuẩn bị các nội dung công việc cụ thể của mình trong buổi sinh hoạt. Các công việc cụ thể: Công tác tham mưu xây dựng kế hoạch, công tác chủ nhiệm lớp, công tác khoa học, công tác nghiên cứu thực tế, công tác phối hợp....

Thứ hai, về trình tự tổ chức buổi sinh hoạt chuyên môn của phòng. Để cho buổi sinh hoạt chuyên môn sôi nổi hiệu quả, đạt được mục đích đã đặt ra, trước hết, từng cán bộ, viên chức của phòng trên cơ sở nội dung công việc của mình chủ động trình bày các công việc cụ thể của mình đã được lãnh đạo nhà trường và lãnh đạo phòng phân công. Trình bày rõ công việc đã làm được, công việc chưa làm được, khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Sau đó, các cán bộ, viên chức trong phòng thảo luận, đóng góp ý kiến. Các ý kiến bổ sung, góp ý phải phù hợp với quy chế của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và quy định của nhà trường và tình hình thực tiễn. Trưởng phòng tiếp thu và giải trình. Vượt quá thẩm quyền trưởng phòng có trách nhiệm báo cáo lên Ban Giám đốc xem xét giải quyết. Phần này được xem là thống nhất về cách thức xử lý.

Đặc biệt, phòng thường xuyên cử một đồng chí ghi biên bản cuộc họp sinh hoạt chuyên môn. Biên bản làm căn cứ pháp lý đồng thời là chứng cứ để đi đến sự nhất trí, thống nhất về chuyên môn của phòng.

Thứ ba, về không khí buổi sinh hoạt: Cán bộ, viên chức của phòng luôn phát huy tinh thần dân chủ, tích cực, tự giác, sẵn sàng trao đổi, thảo luận, chia sẻ. Trao đổi với nhau trên tình thần xây dựng, chân tình. Viên chức được đóng góp ý kiến nghiêm túc và tiếp thu những phần được đóng góp.

Thứ tư, xây dựng cơ chế phản biện, xem sau khi được đóng góp ý kiến thì hiệu quả xử lý công việc của viên chức có thay đổi không? Viên chức được đóng góp ý kiến phải có sự phản hồi lại thông tin để lãnh đạo phòng nắm được thực tiễn nội dung và phương pháp xử lý công việc, cũng là để rút kinh nghiệm để những lần sinh hoạt chuyên môn sau hiệu quả hơn nữa.

            Trên đây là một số kinh nghiệm trong sinh hoạt chuyên môn của phòng Đào tạo. Tác giả với mong muốn chia sẻ để nhận được ý kiến đóng góp từ các đơn vị khoa, phòng để hoạt động chuyên môn của phòng đạt hiệu quả hơn./.



[1] GS.TS Lê Hữu Nghĩa (2013) “ Tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” . Tạp chí lý luận chính trị số 11

[2] Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tr.70

[3] Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.169

[4] Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.169

[5] Hoàng Ngọc Hòa (2012), “Mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân – một nguyên tắc cốt tử”, Báo Đại đoàn kết, tháng 4

[6] Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.169

[7] Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.169

[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, NXB.CTQG.H. 2000. tr.242

[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập 11,  Sđd, tr. 161

[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 268-269

[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 317

[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđ d, tr. 317

[13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 92, 80

[14] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 271

[15] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 92, 80

[16] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 243

[17] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 212

[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, NXBCTQG.H..2000, tr. 516-517

[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, NXBCTQG.H..2000, tr

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 31

[21] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 142-143

[22] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng xuất bản, Hà Nội, 2016, tr.39.

[23] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd tr.55.

[24] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd tr.76.

[25] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd tr.78.

[26] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd tr.57.

[27] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd tr.433.

[28] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2000, tr. 316

[29] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn  phòng Trung ương Đảng, HN.2016,tr.9

[30] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn  phòng Trung ương Đảng, HN.2016,tr.126

[31] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn  phòng Trung ương Đảng, HN.2016,tr.124-125

[32]  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn  phòng Trung ương Đảng, HN.2016,tr.126

[33] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn  phòng Trung ương Đảng, HN.2016,tr.29

[34] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn  phòng Trung ương Đảng, HN.2016,tr.128

[35] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016,tr1

[36] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016,tr169

 

[37] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016,tr168

[38] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016,tr169

5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016,tr170

[40] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016,tr170

[41] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016,tr170

 

[42] Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb.Chính trị quốc gia.

[43] Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb.Chính trị quốc gia.

[44] Văn kiện Đại Hội Đại Biểu Đảng Bội Tỉnh Nam ĐỊnh lần thứ XIX nhiệm kỳ 2015- 2020. tr.51

[45] Nghị quyết Đại hội Đại Biểu Đảng Bộ Tỉnh Nam Định lần thứ XIX, tr.95

[46] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T8.tr 276

[47] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T5.tr 700

[48] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc. tr 210

[49] Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XIX nhiệm kỳ 2015 – 2020, tr76

[50] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.220, 171, 173 -174 và 175-177.

[51] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.220, 171, 173 -174 và 175-177.

[52] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Hà Nội, 2016, tr.171-173.

[53] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Hà Nội, 2016, tr.171-173.

[54] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Hà Nội, 2016, tr.171-173.

[55] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Hà Nội, 2016, tr.171-173.

[56] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, 2016, tr.108

[57] Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (103) – 2016.

[58] Webside vovworld.vn..Bài viết: “Văn kiện Đại hội XII của Đảng: Kinh tế tư nhân là động lực để phát triển đất nước”, tác giả Nguyễn Hằng.

 

[59] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, 2016,tr.108.

[60] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, 2016, tr 102,103.

[61] HCM toàn tập, t9, tr.222, H2002

[62] HCM toàn tập, t4,tr.7, H2011

[63] HCM toàn tập, t11, tr.595, H2011

[64] HCM toàn tập, t4, tr.34-35, H2011

[65] HCM toàn tập, t12, tr.647, H 2011 

[66] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, tr.345, H 2011

(Nguồn: Phòng Khoa học - Tháng 11/2016)

Thông tin khác

Nội san tháng 6/2016
Nội san tháng 11/2015
Lịch giảng dạy
Hoạt động tiêu biểu
BithuTinhuy
hoithaocapbo2022
hoithaokllcs
giaoluubongda
camhoa
Trường Chính trị Trường Chinh
Địa chỉ: Số 39 Đường Vị Xuyên - TP.Nam Định
Điện thoại: 0228.3649222 - Fax: 0228.3642530 - Hotline 24/7: 
Website: www.truongchinhtritruongchinhnd.gov.vn - Email: chinhtrinamdinh@gmail.com